Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

60
Quản lý nguồn Tài nguyên Thiên nhiên Vùng Ven biển Tỉnh Sóc Trăng Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007 Phạm Trọng Thịnh

Transcript of Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

Page 1: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

Quản lý nguồn Tài nguyên Thiên nhiên Vùng Ven biển Tỉnh Sóc Trăng

Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

Phạm Trọng Thịnh

Page 2: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

Xuất bản Deutsche Gesellschaft für Internationale Zusammenarbeit (GIZ) GmbH Quản lý Nguồn Tài nguyên Thiên nhiên vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng Tác giả Phạm Trọng Thịnh Ảnh bìa Rừng ngập mặn dọc bờ biển Huyện Vĩnh Châu, K. Schmitt 2010 © giz, tháng 02/2011

Page 3: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 – 2007

Phạm Trọng Thịnh

Tháng 02/2011

Page 4: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

ii

Giới thiệu về GIZ

Năng lực toàn diện cho phát triển bền vững dưới một mái nhà chung

Với phương châm làm việc năng suất, hiệu quả và dựa trên tinh thần hợp tác, GIZ hỗ trợ người dân và cộng đồng tại các nước đang phát triển, các quốc gia đang trong thời kỳ chuyển đổi và các nước công nghiệp trong việc định hướng tương lai và cải thiện điều kiện sống. Đây là tôn chỉ hoạt động của Deutsche Gesellschaft für Internationale Zusammenarbeit (GIZ). Được thành lập ngày 01 tháng 01 năm 2011, GIZ tập hợp những kinh nghiệm được tích lũy trong nhiều năm của Tổ chức Dịch vụ Phát triển Đức (DED), Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Đức (GTZ) và Tổ chức Bồi dưỡng và Nâng cao Năng lực Quốc tế Đức (InWEnt). GIZ là tổ chức trực thuộc nhà nước Cộng hòa Liên bang Đức, hỗ trợ Chính phủ Đức trong những nỗ lực thực hiện các mục tiêu trong lĩnh vực hợp tác quốc tế cho phát triển bền vững. GIZ cũng tham gia vào công tác giáo dục quốc tế trên toàn cầu.

Phát triển hiệu quả

GIZ hỗ trợ các đối tác trong nỗ lực đạt được những mục tiêu phát triển lâu dài thông qua việc cung cấp các dịch vụ hiệu quả được thiết kế phù hợp với yêu cầu của phát triển bền vững. GIZ áp dụng cách tiếp cận tổng thể dựa trên giá trị để đảm bảo sự tham gia của tất cả các bên liên quan. Trong quá trình này, sứ mệnh phát triển bền vững luôn là định hướng chủ đạo xuyên suốt mọi hoạt động của tổ chức. GIZ cũng luôn quan tâm đến các khía cạnh chính trị, kinh tế, xã hội và sinh thái khi hỗ trợ đối tác ở các cấp địa phương, khu vực, quốc gia và quốc tế tìm ra các giải pháp cho cộng đồng trong bối cảnh xã hội rộng lớn hơn. Đây là phương thức giúp GIZ đạt được sự phát triển một cách hiệu quả.

GIZ hoạt động trên nhiều lĩnh vực bao gồm: phát triển kinh tế và xúc tiến việc làm; xây dựng nhà nước và khuyến khích dân chủ; thúc đẩy hòa bình, an ninh, tái thiết và giải quyết mâu thuẫn dân sự; an ninh lương thực, y tế, giáo dục phổ cập; bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Chúng tôi cũng cung cấp các dịch vụ về quản lý và hậu cần để hỗ trợ đối tác trong việc thực hiện những nhiệm vụ phát triển. Trong các tình huống khủng hoảng, GIZ còn tiến hành các chương trình người tị nạn và cứu trợ khẩn cấp. Là một phần của dịch vụ phát triển, GIZ đồng thời cung cấp nhiều chuyên gia hỗ trợ phát triển cho các nước đối tác.

GIZ tư vấn cho các cơ quan tài trợ và đối tác các vấn đề về xây dựng kế hoạch và chiến lược, giới thiệu các chuyên gia hòa nhập và chuyên gia hồi hương ở các nước đối tác, đồng thời thúc đẩy mạng lưới hợp tác và đối thoại giữa các bên liên quan trong hoạt động hợp tác quốc tế. Nâng cao năng lực cho chuyên gia của các nước đối tác là một phần quan trọng trong dịch vụ của GIZ. Chúng tôi tạo nhiều cơ hội cho các thành viên tham gia các hoạt động có thể duy trì và thúc đẩy những mối quan hệ mà họ tạo dựng được. Ngoài ra, GIZ còn tạo điều kiện để những người trẻ tuổi nâng cao kinh nghiệm chuyên môn của mình trên khắp thế giới thông qua các chương trình trao đổi giành cho chuyên gia trẻ. Những chương trình này giúp xây dựng nền móng cho thành công trong sự nghiệp của họ trên các thị trường trong nước và quốc tế.

Các cơ quan ủy nhiệm cho GIZ

Hầu hết các hoạt động của GIZ được thực hiện theo ủy nhiệm của Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển (BMZ). Ngoài ra, GIZ cũng hoạt động thay mặt cho các Bộ khác của Đức, cụ thể là Bộ Ngoại giao Liên bang, Bộ Môi trường Liên Bang, Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Liên bang. GIZ cũng hoạt động theo ủy quyền của chính quyền các bang và các cơ quan công quyền khác của Đức, các cơ quan và tổ chức thuộc khu vực nhà nước, tư nhân trong và ngoài nước Đức, Ủy ban Châu Âu, Liên Hiệp Quốc và Ngân hàng Thế giới. Chúng tôi hợp tác chặt chẽ với khu vực tư nhân và góp phần thúc đẩy xây dựng những tương tác theo định hướng kết quả giữa phát triển và khu vực ngoại thương. Kinh nghiệm dày dạn của chúng tôi với các khối liên minh tại các nước đối tác và tại Đức là nhân tố quan trọng cho hợp tác quốc tế thành công không chỉ trong các lĩnh vực kinh doanh, học thuật văn hóa mà còn trong cả xã hội dân sự.

GIZ và những con số

GIZ hoạt động tại hơn 130 quốc gia trên toàn cầu. Tại Đức, GIZ có mặt ở hầu khắp các bang với văn phòng chính được đặt tại Bonn và Eschborn. GIZ tuyển dụng khoảng 17.000 nhân viên trên toàn thế giới với hơn 60% là nhân viên bản địa. Ngoài ra, GIZ còn có 1.135 cố vấn kỹ thuật, 750 chuyên gia hòa nhập, 324 chuyên gia hồi hương, 700 chuyên gia địa phương tại các tổ chức đối tác cùng 850 tình nguyện viên (weltwärts). Với doanh thu ở mức 1,9 tỷ euro tính tạI thời điểm tháng 12 năm 2010, GIZ có thể tự tin nhìn về tương lai phía trước.

Page 5: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

iii

Mục lục

Giới thiệu về GIZ ..........................................................................................................................................ii

Mục lục ........................................................................................................................................................iii

Danh sách hình .......................................................................................................................................... iv

Danh sách bảng ...........................................................................................................................................v

Chữ viết tắt ...................................................................................................................................................v

1. Đặc điểm sinh thái vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng ..........................................................................6

1.1 Vị trí địa lý .................................................................................................................................6

1.2 Đặc điểm khí hậu ......................................................................................................................6

1.3 Thủy văn ...................................................................................................................................7

1.4 Địa mạo cảnh quan ...................................................................................................................7

2. Hệ sinh thái rừng ngập mặn vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng....................................................... 12

2.1 Rừng ngập mặn ..................................................................................................................... 12

2.2 Thành phần loài cây rừng ngập mặn ..................................................................................... 13

2.3 Sự thích nghi của cây rừng ngập mặn với môi trường .......................................................... 14

2.4 Các quần thụ rừng ngập mặn chủ yếu ở ven biển tỉnh Sóc Trăng ........................................ 16

2.5. Các dịch vụ và giá trị của rừng ngập mặn ............................................................................. 16

3. Diễn biến tài nguyên rừng ở vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng và hậu quả về môi trường ....... 22

3.1 Diễn biến tài nguyên rừng ngập mặn .................................................................................... 22

3.2. Những nguyên nhân gây suy giảm tài nguyên rừng ngập mặn ............................................ 27

3.3. Hậu quả của sự giảm sút tài nguyên rừng ngập mặn ........................................................... 31

4. Trồng rừng và quản lý bảo vệ rừng ven biển tỉnh Sóc Trăng ................................................... 32

4.1. Chương trình trồng rừng từ nguồn vốn Chính phủ (chương trình 327) ................................ 33

4.2. Rừng trồng theo dự án trồng rừng ngập mặn do Hà Lan tài trợ ........................................... 34

4.3. Dự án Bảo vệ và Phát triển những vùng Đất ngập nước ven biển (CWPD) ......................... 35

4.4 Tái sinh và sinh trưởng của rừng tự nhiên ............................................................................ 43

4.5 Công tác vườn ươm .............................................................................................................. 44

4.5.1 Địa điểm lập vườn ươm ............................................................................................ 45

4.5.2 Các dạng vườn ươm và phân khu ............................................................................ 46

4.6 Hiện trạng quản lý rừng ngập mặn tỉnh Sóc Trăng................................................................ 47

4.7 Bài học kinh nghiệm từ thành công của các hoạt động trồng rừng ....................................... 48

5. Các biện pháp bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn .................................................................. 49

5.1 Các quan điểm và mục tiêu ................................................................................................... 49

5.2 Nâng cao năng lực quản lý tổng hợp vùng ven biển ............................................................. 50

5.3 Nghiên cứu khoa học và công nghệ ...................................................................................... 51

5.4 Các mặt kinh tế xã hội ........................................................................................................... 52

5.5 Các chính sách và thể chế ..................................................................................................... 53

Tài liệu tham khảo .................................................................................................................................... 54

Page 6: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

iv

Danh sách hình

Hình 1: Vị trí tỉnh Sóc Trăng. ......................................................................................................................6

Hình 2: Bản đồ đẳng trị lượng mưa ở ĐBSCL. (Yamashita 2005). ..........................................................6

Hình 3: Bồi tụ ven biển gần thị trấn Vĩnh Châu. ........................................................................................8

Hình 4: Xói lở ở ven biển Vĩnh Tân. ...........................................................................................................8

Hình 5: Cửa cống nay cách bờ biển khoảng 300 mét, vốn nằm trên đê 10 năm trước. ............................8

Hình 6: Thay đổi diện tích rừng ngập mặn và đường bờ biển ở Cù Lao Dung. Dấu (+) thể hiện vị trí địa lý giống nhau ở cả 3 thời điểm. ........................................................................................9

Hình 7: Bản đồ chỉ ra ranh giới các xã và các địa danh được trình bày trong báo cáo này. .................. 11

Hình 8: Cây bần mọc trên đất bị ngập triều cao hằng ngày. ................................................................... 12

Hình 9: Cây dà mọc trên đất cao, bị ngập triều cao hàng tháng. ............................................................ 12

Hình 10: Rừng ngập mặn bảo vệ các cộng đồng ở vùng ven biển. Trái: Bờ biển với đai rừng bảo vệ. Mặt: Bờ biển không có đai rừng bảo vệ. ......................................................... 17

Hình 11: Rừng ngập mặn - nơi nuôi dưỡng và bảo vệ các loài tôm, cua (vẽ lại với sự cho phép của Bùi Thị Nga và Huỳnh Quốc Tinh, 2008). ............................................................................ 18

Hình 12: Giá trị tàng trữ Carbon của rừng ngập mặn (vẽ lại và viết lại với sự cho phép của Trí, 2007). ............................................................................................................................. 18

Hình 13: Trình bày bản đồ diễn biến hiện trạng rừng ngập mặn dọc theo bờ biển tỉnh Sóc Trăng năm 1965, 1995, 2001 và 2008. ................................................................................................. 26

Hình 14: Sự thay đổi diện tích rừng ngập mặn tại Sóc Trăng.................................................................... 27

Hình 15: Rừng mấm bị chặt phá trái phép. ................................................................................................ 29

Hình 16: Rừng Đước đang bị chết do bao bí nước. .................................................................................. 29

Hình 17: Nguyên nhân và hậu quả giảm sút rừng ngập mặn. ................................................................... 31

Hình 18: Rừng Bần trồng năm 1993 tại xã An Thạnh Nam. ...................................................................... 34

Hình 19: Rừng Đước trồng năm 1995 tại xã Vĩnh Hải, Vĩnh Châu. ........................................................... 34

Hình 20: Tỷ lệ sống thấp nơi ngập cao. ..................................................................................................... 37

Hình 21: Hào bám gây chết cây. ................................................................................................................ 37

Hình 22: Mấm biển trồng bằng bầu nilon 6 tuổi tại xã Vĩnh Châu. ............................................................ 38

Hình 23: Nền đất cứng không thích hợp với cây đước. ............................................................................. 39

Hình 24: Đước trồng bằng túi bầu nilon tại xã Vĩnh Châu phát triển tốt. ................................................... 39

Hình 25: Rừng bần ACTMANG trồng. ........................................................................................................ 42

Hình 26: Rừng đước trồng 1 năm tuổi tại xã Vĩnh Hải, Vĩnh Châu. .......................................................... 42

Hình 27: (a) Rừng mấm biển tái sinh dày dọc bờ biển xã Vĩnh Hải, Vĩnh Châu và (b) Rừng bần tái sinh ở Cồn Tròn. ........................................................................................ 44

Hình 28: (a) Vườn ươm tại Vĩnh Châu, Sóc Trăng (b) Vườn ươm ở Vĩnh Châu nay trồng Phi lao. ......... 45

Hình 29: Các hoạt động trong vườn ươm. ................................................................................................. 46

Page 7: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

v

Danh sách bảng

Bảng 1: Thay đổi diện tích đất tại Cù Lao Dung từ 1965 đến 2007. ...........................................................9

Bảng 2: Danh sách các loài cây rừng ngập mặn thực thụ của vùng cửa sông,

ven biển tỉnh Sóc Trăng. ............................................................................................................. 14

Bảng 3: Sự thay đổi về thành phần thực vật và sự biến đổi của

các chỉ tiêu chất lượng nước nghiên cứu ở Thái Lan................................................................. 15

Bảng 4: Kết quả trồng rừng của Chương trình 327 tại huyện Cù Lao Dung và Vĩnh Châu. ................... 33

Bảng 5: Rừng bần chua trồng bằng vốn dự án MILIEV tại xã Trung Bình, huyện Trần Đề. ................... 35

Bảng 6: Tổng hợp tình hình trồng rừng qua các năm của CWPD. .......................................................... 35

Bảng 7: Sinh trưởng của rừng trồng bần chua, mấm biển (CWDP). ....................................................... 37

Bảng 8: Sinh trưởng của rừng trồng đước (CWPD). ............................................................................... 38

Bảng 9: Diện tích rừng được bảo vệ qua các năm (ha). .......................................................................... 40

Bảng 10: Sinh trưởng của rừng trồng bần chua và đước, nguồn vốn ACTMANG. ................................... 42

Bảng 11: Rừng tái sinh tự nhiên Bần chua tại huyện Cù Lao Dung, Trần Đề và Vĩnh Châu. ................... 43

Chữ viết tắt

ACTMANG Tổ chức Hành động Phục hồi Rừng ngập mặn, Nhật Bản

CWPD Dự án Bảo vệ và Phát triển những vùng Đất ngập nước Ven biển

DBH Đường kính tại tầm cao ngang ngực

ETM Bản đồ địa hình phía đông

FAO Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc

H Chiều cao toàn thân cây

ha Diện tích 1 ha = 10.000 m2

IDA Hiệp hội phát triển quốc tế

km Cây số (kilomet)

m Mét

m/s Mét/giây

mhsl Mực nước biển cao nhất bình quân

mlsl Mực nước biển thấp nhất bình quân

mm Milimét

N Số cây

NPK Đạm, Lân, Kali

PNAS Tạp chí của Viện khoa học hàn lâm quốc gia

RMFP Dự án tái tạo rừng ngập mặn

SIWRPM Phân viện Quy hoạch và Quản lý tài nguyên nước

TEV Tổng giá trị kinh tế

WB Ngân hàng Thế giới

Page 8: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

6

1. Đặc điểm sinh thái vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng

1.1 Vị trí địa lý

Tỉnh Sóc Trăng có phần đất liền nằm từ 9°14'N-9°56'N vĩ độ

bắc và 105°34'E-106°18'E kinh độ đông. Phía Tây Bắc giáp

tỉnh Hậu Giang, phía Tây Nam giáp tỉnh Bạc Liêu, phía Đông

Bắc giáp tỉnh Trà Vinh, phía Đông Nam giáp Biển Đông (Hình

1). Đường bờ biển trải dài 72 km.

1.2 Đặc điểm khí hậu

Vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng có khí hậu xích đạo, với đa số

ngày nắng tốt, nhiệt độ cao và mưa trung bình. Nhiệt độ trung

bình hằng năm là 26- 270 C, dao động khoảng 12-13°C theo

mùa với biến đổi trung bình hằng tháng 3-4°C, và dao động

của nhiệt độ ngày và đêm khoảng 7-8OC. Lượng mưa hàng

năm tại Sóc Trăng vào khoảng 1.828 mm/năm (Hình 2), và

tổng bức xạ mặt trời hàng năm cao và rất ít thay đổi trong năm

(130 kcal/cm2/năm). Mức độ gió và lượng mưa thay đổi theo

mùa. Khí hậu được đặc trưng bởi 2 mùa rõ rệt: mùa khô và

mùa mưa. Những điều kiện theo mùa tương quan chặt chẽ với

chế độ bồi lắng và xói lở của vùng ven biển.

85% tổng lượng mưa hàng năm rơi vào các tháng mùa mưa,

từ tháng 5 đến tháng 10, với lượng mưa cao nhất (292,4 mm)

trong tháng 10 (Hồng et al.1997). Mức độ bức xạ thấp nhất xảy

ra giữa tháng 6 và tháng 9 với khoảng 9 kcal/cm2/tháng. Gió

tây nam nhẹ phổ biến trong mùa này với tốc độ gió luôn ít hơn

3m/s. Trong mùa mưa, sông Mekong mang trầm tích từ thượng

nguồn về các khu vực cửa sông, tạo nên đồng bằng bùn bồi

rộng ra phía biển hàng ngàn mét.

Mùa khô được định nghĩa bởi lượng mưa thấp hơn từ tháng 11

đến tháng 4, với lượng mưa hằng tháng thấp nhất (2.2 mm)

vào tháng 2 (Hồng et al 1997). Bầu trời trong mùa này không

có mây, như biểu hiện bởi tổng bức xạ mặt trời tương đối cao

giữa tháng 1 và tháng 4 từ 12-16 kcal/cm2/tháng. Trong mùa

khô, hướng gió thịnh hành là gió Đông Bắc với tốc độ gió luôn

luôn quá 3 m/s. Vận tốc gió có khi đạt đến 10 m/s trong tháng 3

và tháng 11 hay 12, đôi khi gây xói lở nghiêm trọng cho vùng

bờ biển, vật liệu mới được bồi tụ trong mùa mưa bị sóng cuốn

đi, bao gồm cả cây con mới trồng.

Hình 2: Bản đồ đẳng trị

lượng mưa ở ĐBSCL.

(Yamashita 2005).

Hình 1: Vị trí tỉnh Sóc Trăng.

Page 9: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

7

1.3 Thủy văn

Vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng chịu ảnh hưởng bởi chế độ dòng chảy, lưu lượng sông Mekong, chế độ

thủy triều Biển Đông và dòng chảy dọc bờ.

Sông Mekong có diện tích lưu vực lớn với mức lưu lượng cao thay đổi theo mùa. Sông bắt nguồn từ phía

Tây Nam Trung Quốc chảy qua Miến Điện, Lào, Thái Lan, Campuchia vào Đồng Bằng Sông Cửu Long.

Với chiều dài 4.800 km, tổng diện tích lưu vực 1.795.000 km2, lưu lượng bình quân hàng năm 15.000

m3/s. Hằng năm sông chuyển khoảng trên 500 tỷ m

3 nước ra biển. Từ Phnom Penh (Campuchia), sông

chảy qua Đồng Bằng Sông Cửu Long. Ở đây, sông được gọi là Cửu Long, có nghĩa là „chín con rồng‟.

Nhánh cực nam của sông Mekong, sông Hậu, tạo thành ranh giới phía đông bắc của tỉnh Sóc Trăng.

Chế độ triều của Biển Đông là chế độ bán nhật triều không đều. Sự chênh lệch giữa 2 chân triều khá lớn,

tối đa đến 2 m. Biên độ thủy triều dao động từ 3,6 đến 4,2 mét xảy ra từ tháng 8 đến tháng 1 năm sau,

chồng chéo với sự kết thúc của mùa khô và đầu mùa mưa. Đỉnh triều đạt mức tối đa trong các tháng 10

và tháng 11 và mức tối thiểu trong các tháng 4 và tháng 5 (Euroconsult 1996).

Gió mạnh trong mùa khô đã khiến cho thủy triều vào sâu trong đất liền hơn là các tháng còn lại trong

năm. Sự tương tác giữa gió, thủy triều và dòng chảy của sông ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên của

các khu vực cửa sông chiếm ưu thế này. Do địa hình thấp như thế, hầu hết toàn thể diện tích vùng cửa

sông thường bị nước mặn xâm nhập thông qua các lòng sông và các kênh rạch. Hằng năm, diện tích lớn

nhất bị ảnh hưởng bởi xâm nhập triều được nhận thấy trong tháng 4 và tháng 5.

Nhiệt độ trung bình của nước tại các cửa sông của sông Cửu Long là khoảng từ 30° đến 35°. Sự chênh

lệch về nhiệt độ nước hàng năm trong khoảng 4,9 - 8,5°C, với giá trị cao nhất xảy ra trong tháng 3 và

tháng 4 và giá trị thấp nhất được quan sát vào tháng 12 hay tháng 1 (Euroconsult 1996).

Hầu hết các khu vực thuộc rừng ngập mặn là đất axít sulphate mặn. Đất này chứa nhiều pyrít và có thể

gây ra những tác động tiêu cực nghiêm trọng đến thiên nhiên nếu được tiếp xúc với ánh nắng mặt trời,

khô đi và bị oxy hoá.

Trong mùa khô, giá trị trung bình độ mặn của nước luôn trên 16 g/l trong tháng 4 (Sâm 2003). Giá trị độ

mặn trung bình được quan sát vào tháng 4 (2000) là 23.5 g/l (tối đa) và 13.6 g/l (tối thiểu). Trong mùa

mưa, độ mặn giảm xuống còn 8,08 g/l.

Diễn biến của độ mặn của nước trong vùng là do tương quan diễn biến của nước triều và lượng nước

ngọt từ thượng nguồn tới. Trong mùa mưa, lượng lớn nước ngọt pha loảng độ mặn dọc theo sông.

Ngược lại trong mùa khô, độ mặn tăng lên vì lượng nước ngọt giảm đi.

Trị số độ pH của nước thường trung tính. Sự khác nhau giữa độ pH của nước trong vuông tôm và nước

trong các kênh vào khoảng 0,1-0,3.

1.4 Địa mạo cảnh quan

Khu vực ven biển Sóc Trăng nằm ở một đơn vị địa mạo gọi là: Đồng bằng ven biển (Ngân hàng Thế giới

và Chính phủ Việt Nam 1993). Địa hình cơ bản của vùng đồng bằng này là những giồng cát thấp và nhỏ

nằm song song với bờ biển với những đồng lầy bùn ở giữa. Khi mực nước triều cao, hầu hết vùng đồng

bằng ven biển đều bị ngập mặn.

Các giồng cát phát triển theo hướng Tây Bắc tới Đông Nam, song song với bờ biển. Các giồng cát

thường có địa hình cao từ 3 - 4 mét, được cấu tạo khoảng 70% cát, 15% bùn, 10% sét, 2-3% chất hữu

cơ, 1-2% oxyt sắt với những đốm màu vàng cam. Ở các giồng mới hơn có nhiều mica và sét hơn các

giồng cổ hơn, đất cát có khả năng trao đổi cao nhưng nghèo chất dinh dưởng do ảnh hưởng của nước

mặn.

Page 10: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

8

Các loại đất sét biển mặn giàu chất dinh dưỡng và ít có tính axít. Các vùng đất mặn nguyên thủy, có địa

hình trũng thường bị ngập mặn đang được lấp dần trên vùng đầm lầy ven biển, hình thành môi trường

thích hợp cho nhiều loài cây rừng ngập mặn sinh sống. Thành phần vật chất chủ yếu là sét 50%, bùn

30%, chất hữu cơ 20%. Sét có màu xám hay nâu do

chứa nhiều chất hữu cơ, và lớp pyrit.

Càng vào đất liền, vùng đầm lầy mặn được nâng cao,

độ mặn giảm đi và đất có tính axít hơn. Những bãi

ngập triều này là cát hay bùn tùy thuộc nguồn tiếp liệu

đưa ra từ cửa sông. Các quá trình địa mạo ở vùng

ven biển chi phối dạng tạo thành, hình dạng của

đường bờ biển hiện tại.

Quá trình bồi tụ và xói lở bờ biển

Trên đoạn bờ biển dài hơn 72 km của tỉnh Sóc Trăng,

đường bờ biển thể hiện các quá trình xói lở và bồi tụ

rất năng động. Sự tương tác giữa các nhân tố tự

nhiên như dòng chảy, thủy triều, gió và sóng gây ra

xới lở nghiêm trọng dọc theo bờ biển. Quá trình này

đang trở nên nghiêm trọng hơn với sự biến mất của

rừng ngập mặn.

Có hai quá trình ngược nhau, bồi lắng và xói lở dọc

theo đường bờ biển huyện Vĩnh Châu (xem Hình 3 và

4). Các đoạn xói lở nghiêm trọng xảy ra tại xã Lai Hoà

đến Vĩnh Phước cũng như dọc theo bờ biển Vĩnh Hải

gần cửa sông Mỹ Thanh (xem hình 7 cho tất cả các vị

trí địa lý). Những biện pháp cụ thể về tốc độ xói lở

dọc theo bờ biển đã được thực hiện từ thông tin viễn

thám, bản đồ và quan sát thực địa tại Vĩnh Tân (8-15

m/năm), và Lai Hoà (20 m/năm).

Hình 5 chỉ ra vị trí đường bờ biển ở giai đoạn 10 năm

trước, nay đã nằm cách bờ gần 300 mét. Cửa cống

hiện đang đứng cách bờ biển hiện có 300 m.

Tương tự bồi tụ xảy ra rất nhanh. Điều này hiển nhiên

trong việc lắng đọng hằng năm dọc theo bờ biển và

quy mô mở rộng của khu vực ven biển tại một số nơi,

như xã An Thạnh Nam (huyện Cù Lao Dung), và xã

Trung Bình (huyện Trần Đề).

Hình 3: Bồi tụ ven biển gần thị trấn Vĩnh Châu.

Hình 4: Xói lở ở ven biển Vĩnh Tân.

Hình 5: Cửa cống nay cách bờ biển khoảng 300

mét, vốn nằm trên đê 10 năm trước.

Page 11: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

9

Hình 6 thể hiện sự thay đổi của rừng ngập mặn ở khu vực Cù Lao Dung từ năm 1965 đến năm 2007. Có

2 yếu tố chủ yếu là sự suy giảm diện tích rừng ngập mặn và tốc độ bồi tụ phù sa.

Những thay đổi diện tích đất tại Cù Lao Dung từ 1965 đến 2007 được trình bày trong Bảng 1. Tổng diện

tích của An Thạnh Nam và ấp An Thanh Ba (An Thanh 3) vào khoảng 5.498 ha năm 1965, 6.726 ha năm

1995 và 7.559 ha năm 2007. Từ năm 1965 đến năm 2007, tổng diện tích của 2 ấp này tăng khoảng

2.061,7 ha với tốc độ bình quân là 48 ha/năm. Diện tích rừng ngập mặn là 1.791,9 ha năm 1965, 719,3

ha năm 1995 và 1.107,2 ha năm 2007.

Bảng 1: Thay đổi diện tích đất tại Cù Lao Dung từ 1965 đến 2007.

Năm Diện tích đất (ha)

Đất có rừng (ha)

Đất không có rừng (ha)

Tăng diện tích đất (ha)

1965 5.497,7 1.791,9 3.705,8

1995 6.725,8 719,3 6.006,5 1.228,1 (từ 1965 đến 1995)

2007 7.559,4 1,107,2 6.452,2 833,6 (từ 1995 đến 2007)

Tóm lại, tốc độ bồi tụ phù sa đã quan sát được ở một số địa điểm vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng như sau:

Mức độ bồi tụ 45 m/năm, đoạn được bồi tụ dài 7.8 km, ở ven biển các xã An Thạnh Nam (Cù Lao Dung, Trung Bình (TrầnĐề)

Mức độ bồi tụ 15 m/năm, đoạn được bồi tụ 3.2 km ở ven b iển xã Lạc Hoà (Vĩnh Châu)

Mức độ bồi tụ 10 m/năm dài 8.3 km ở ven biển xã Vĩnh Hải

Quá trình bồi tụ và xói lở diễn ra tuần tự theo mùa. Kết quả nghiên cứu của Dự án bảo vệ và phát triển những vùng đất ngập nước ven biển các tỉnh phía Nam đồng bằng sông Cửu Long (Euroconsult 1996) tại khu vực ven biển huyện Vĩnh Châu, cho thấy:

Giai đoạn từ tháng 11 đến tháng 04 là mùa gió mùa Đông Bắc hay mùa khô với tốc độ gió tối đa là 5-8 m/s. Trong thời gian này, cường độ gió cao nhất, gây ra sóng với cường độ cao đập vào bờ biển theo góc 45-50 độ.

Thủy triều lên xuống 2 lần trong ngày với sóng có động năng lớn tạo mức độ xói lở với cường độ cao. Trong thời gian này, số lượng trầm tích trong dòng chảy sông Mekong ở mức thấp nhất của nó. Trầm tích do sông Hậu đem tới đều tích đọng ngay cuối vùng cửa sông gần Cù Lao Dung và phía Nam cửa sông Mỹ Thanh. Dòng hải lưu chảy theo hướng Tây Nam với rất ít trầm tích. Vì vậy, rất ít bồi lắng đọng lại khu vực ven biển huyện Vĩnh Châu.

Trong giai đoạn này, tại vùng ven biển huyện Vĩnh Châu chủ yếu là giai đoạn bờ biển bị lở. Bờ biển tại xã Vĩnh Tân và Vĩnh Hải, cũng như tại cửa cống Xóm Đáy bị lở với tốc độ bình quân từ 15 đê`n 30 m/năm, dọc theo một đoạn dài 3,5 km.

Hình 6: Thay đổi diện tích rừng ngập mặn và đường bờ biển ở Cù Lao Dung. Dấu (+) thể hiện vị trí

địa lý giống nhau ở cả 3 thời điểm.

Page 12: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

10

Vào cuối mùa khô, vật liệu từ quá trình xói lở dọc theo bờ biển và trầm tích được đưa đến cửa sông gia tăng do mưa thượng nguồn trên sông Mekong. Những vật liệu này tích tụ dọc theo bờ biển, tạo thành những bãi bồi không ổn định. Vào lúc thủy triều xuống, đã để lộ ra bãi bồi rộng tới 2-3 km với tầng bùn dầy 1-2 mét, đặc biệt vào thời gian cao điểm của mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 10. Vật liệu hình thành các bãi bồi này có lẽ chủ yếu là đất sét.

Bờ biển của các xã ở tình trạng vừa bồi vừa lở là các xã từ thị trấn Vĩnh Châu tới khu vục cống số 9. Tình trạng này cũng được thấy tại khu vực ven biển phía nam xã Trung Bình (thuộc huyện Trần Đề) và các xã Vĩnh Phước, Vĩnh Tân, Lai Hoà thuộc huyện Vĩnh Châu.

Khi mùa mưa chấm dứt, trầm tích do sông Mekong mang đến không còn, và quá trình bồi tụ ngừng lại. Bờ biển trở lại chu kỳ xói lở với tốc độ hằng năm tứ 10-15 m/năm.

Từ tháng 6 đến tháng 11, gió có tốc độ luôn luôn thấp hơn gió đông bắc trong mùa khô. Tốc độ xói lở trong thời kỳ mùa mưa cũng nhỏ hơn so với giai đoạn mùa khô. Trong giai đoạn mùa mưa, nước sông Mekong đem nhiều phù sa từ phía thượng nguồn đổ ra cửa sông. Lượng phù sa bồi tích dầy ở cửa sông khu vực An Thạnh Nam, An Thạnh Ba, huyện Cù Lao Dung; và các xã Trung Bình, Lịch Hội Thượng, Liêu Tú, huyện Trần Đề), và gần thị trấn Vĩnh Châu.

Nghiên cứu ở cống số 5 (xã An Thạnh Nam) năm 2008 cho thấy vào tháng 4, mặt đất bắt đầu có lớp bùn loãng. Vào tháng 6, mặt đất lại được bồi lên khá nhanh, bãi có nhiều bùn, mức bồi tụ cao khoảng 10,67 cm, mặt đất tuơng đối bằng phẳng. Đây là thời điểm trùng với giai đoạn mùa mưa nên bãi biển có phù sa từ sông Hậu đưa tới. Đến tháng 8, đất bồi thêm không nhiều, lớp bùn trên mặt đất dày 11,3 cm (Cao 2005).

Vào tháng 12, mặt đất hết bùn loãng, chỉ còn bùn chặt (nông dân gọi là rửa bãi). Từ tháng 12 trở đi đến

tháng 2, mặt đất bị xói lở, bóc dần lớp bùn, nên chỉ còn lại nền đất cát. Cuối tháng 2, nền đất có thành

phần chủ yếu là cát rắn chắc. Bãi biển bị xói lở mạnh nhất trong giai đoạn này, mặt đất bị hạ thấp xuống -

21,33 cm so với mặt đất giai đoạn tháng 12.

Quá trình bồi tụ và xói lở bờ biển ảnh hưởng đến quá trình trồng rừng, tái tạo rừng ở vùng ven biển. Việc

chọn lựa mùa vụ trồng rừng và phương thức trồng thích hợp là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến sự

thành công của bất kỳ chương trìng trồng rừng nào.

Bãi cát ven biển

Các bãi cát ven biển phân bố trên địa bàn xã Vĩnh Hải, bãi bồi cát xuất hiện chủ yếu là do bồi tụ của phù

sa biển hoặc dọc theo các khu vực bờ biển bị xói lở, hình thành các dải bãi bồi bùn, dải bãi bồi cát xen

kẽ. Dạng lập địa: nền cát không bị lún, thời gian và chế độ ngập triều cũng như đối với loại bãi bồi trên.

Việc sử dụng bãi bồi cát hiện tại là nuôi nghêu hoặc đánh bắt các loài hải sản trên bãi bồi. Về lâu dài (tùy

tốc độ bồi của từng bãi) khi đã hình thành bãi hay giồng cát cố định sẽ tiến hành trồng đai rừng phi lao.

Hệ thống đê biển và đê sông của tỉnh Sóc Trăng đã được hình thành và nâng cấp hàng chục năm qua

phục vụ cho việc ngăn mặn, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp. Hệ thống đê từ Bãi Giá đến ranh giới tỉnh Sóc

Trăng - Bạc Liêu cơ bản đã xây dựng xong, cao trình mặt đê khoảng 2,5 - 3,2 m, mặt đê rộng 3 - 4 m. Hệ

thống đê này đã tạo nên ranh giới giữa vùng phòng hộ xung yếu ven biển dọc theo bờ biển với vùng kinh

tế nông nghiệp ở phía trong của đê biển. Tuy nhiên hệ thống đê này hàng năm luôn luôn bị xói lở, đặc

biệt ở những nơi không có hệ thống rừng ngập mặn che chắn.

Page 13: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

11

Hình 7: Bản đồ chỉ ra ranh giới các xã và các địa danh được trình bày trong báo cáo này.

Page 14: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

12

2. Hệ sinh thái rừng ngập mặn vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng

2.1 Rừng ngập mặn

“Rừng ngập mặn là những quần xã thực vật hình

thành ở vùng ven biển và cửa sông những nơi bị tác

động của thủy triểu ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới.

Trên thế giới có nhiều tên gọi khác nhau về rừng

ngập mặn như “rừng ven biển”, “rừng ở vùng thủy

triều” và “rừng ngập mặn”. Tổng quát, rừng ngập

mặn gồm những loài cây gỗ, hoặc cây bụi mọc dưới

điều kiện ngập bởi thủy triều khi dâng cao. Do đó, hệ

rễ của chúng thường bị ngập bởi nước mặn, mặc

dầu nước mặn có thể được pha loãng bởi các dòng

nước mặt hoặc ngập lũ một hoặc hai lần trong năm.

Rừng ngập mặn phụ thuộc vào các quá trình sinh

hóa của thủy triều, nước ngọt, quá trình bồi tụ phù sa

do xói mòn bề mặt đất từ phía thượng nguồn đưa lại.

Thủy triều nuôi dưỡng rừng ngập mặn và trầm tích từ

các dòng sông đem theo khoáng chất làm giàu thêm

cho các đầm rừng. Do đó, rừng ngập mặn được hình

thành và phát triển dưới ảnh hưởng của các quá trình

sinh thái từ đại dương và cả phía đất liền” (FAO 1994, trang 5 và trang 1). Ở Việt Nam, hầu hết các nhà

khoa học đều thống nhất tên gọi là “Rừng ngập mặn”.

Đặc điểm tổng quát là loại rừng này thường phân bố ở vùng cửa sông, ven biển hoặc bãi bồi, bị ngập bởi

thủy triều lên trong ngày hoặc trong tháng. Đất rừng ngập mặn mặn và bão hòa nước. Trong điều kiện

như vậy, bộ rễ của các loài cây rừng ngập mặn thường có cấu tạo và hình thái thích nghi với điều kiện

ngập nước để phát triển. Một số loài cây rừng ngập mặn chiếm ưu thế trong vùng triều cao và tiểu triều

của vùng ven biển sông Cửu Long (Hình 8 và 9).

Chẳng hạn, cây đước (Rhizophora) có hệ thống rễ cà

kheo (Arch-formed stilt root) hoặc các loài bần

(Sonneratia) mấm (Avicennia), có hệ thống rễ khí

sinh nhô lên trên mặt nước để hô hấp. Trái của một

số loài cây rừng ngập mặn, như loài đước

(Rhizhophora) thường nảy mầm ngay trên cây trước

khi rớt và cắm xuống đất. Những quần xã thực vật

xuất hiện ở vùng ven biển nhưng không có khả năng

thích ứng với điều kiện ngập thủy triều và đất bão

hòa nước thì không thuộc nhóm các cây rừng ngập

mặn.

Hình 8 và 9 cho thấy hình ảnh hai loài cây ngập mặn

chiếm ưu thế trong vùng ven biển triều cao và tiểu

triều sông Cửu Long.

Tùy theo khả năng thích nghi với các mức độ ngập

triều, độ mặn của nước, độ thuần thục của đất mà đã

hình thành các đai rừng ngập mặn khác nhau. Ở vùng cửa sông, nơi có sự giao thoa giữa nguồn nước

ngọt từ sông đổ ra biển và nước triều hằng ngày các loài cây điển hình ở vùng này thường gặp là bần

chua (Sonneratia caseolaris) hoặc bần đắng (S. alba). Tại các cửa sông Cửu Long, những cây này tạo

thành vành đai xanh dày trên bãi tiểu triều đến bãi bồi tại các lập địa thích hợp dọc theo các cửa sông.

Hình 8: Cây bần mọc trên đất bị ngập triều

cao hằng ngày.

Hình 9: Cây dà mọc trên đất cao, bị ngập

triều cao hàng tháng.

Page 15: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

13

Dừa nước (Nypa fruticans) cũng là một đại diện cho quần xã cây ở vùng cửa sông, nhưng chúng thường

đứng ở sâu hơn về phía đất liền, ở phía sau đai rừng bần (Sonneratia caseolaris).

Ở nơi xa cửa sông, độ mặn của nước thường lớn hơn so với vùng cửa sông thường gặp. Tại các lập địa

này thường gặp các loài chịu mặn như các loài mấm biển (Avicennia marina) hoặc mấm đen (Avicennia

officinalis). Những cây này cũng tạo thành vành đai xanh tự nhiên dọc theo đường bờ biển tại các bãi

bồi.

Trên những vùng đất mặn cao hơn, chỉ bị ngập khi triều lên cao trong tháng hoặc trong năm xuất hiện

các loài cóc (Lumnitzera racemosa) hoặc bụp (Hibiscus tiliaceus).

Quá trình hình thành và phát triển của rừng ngập mặn luôn luôn có quan hệ mật thiết với các điều kiện

môi trường, trong đó quá trình ngập triều, sự lưu thông của thủy triều, sự bồi tụ phù sa là những nhân tố

chi phối mạnh mẽ nhất đối với sự tăng trưởng và thành phần của rừng ngập mặn.

2.2 Thành phần loài cây rừng ngập mặn

Do những đặc điểm đặc biệt của môi trường nên chỉ có một số lượng rất ít các loài cây có thể chịu được

và phát triển bình thường trong điều kiện ngập thủy triều, đất bùn lầy, mặn, khác hẳn so với những loại

rừng phát triển trên đất khô, cao khác. Trên thế giới, thành phần các loài cây của rừng ngập mặn được

FAO (1994) liệt kê gồm 84 loài, trong đó có 66 loài cây gỗ, 13 loài cây bụi, 2 loài cây họ cau dừa, và 3

loài cây dương xỉ. Các nghiên cứu khác liệt kê các con số khác nhau (như Duke 1992), phản ánh tính

chất chủ quan trong việc định nghĩa rừng ngập mặn.

Ở Việt Nam, Đỗ Đình Sâm và các cộng sự (năm 2005) đã liệt kê 37 loài cây là những loài thực thụ cây

rừng ngập mặn. Cần Giờ (thành phố Hồ Chí Minh) là địa phương có số loài cây rừng ngập mặn nhiều

nhất (33 loài), tiếp theo là Cà Mau có 32 loài. Khảo sát tại vùng cửa sông, ven biển tỉnh Sóc Trăng đã xác

định được 26 loài cây năm 2008. Đó là những loài cây rừng ngập mặn thực thụ của vùng cửa sông, ven

biển, danh sách những loài cây này được trình bày trong Bảng 2.

Page 16: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

14

Bảng 2: Danh sách các loài cây rừng ngập mặn thực thụ của vùng cửa sông, ven biển tỉnh Sóc Trăng.

Thứ tự Tên Việt Nam Tên khoa học Dạng sống

Họ Bần Sonneratiaceae 1 Bần đắng (bần trắng) Sonneratia alba J.Smith Gỗ trung bình 2 Bần chua Sonneratia caseolaris (L.) Engl. Gỗ trung bình Họ Mấm Avicenniaceae 3 Mấm trắng (mấm lưỡi đồng) Avicennia alba Blume Gỗ trung bình 4 Mấm đen Avicennia officinalis L. Gỗ trung bình 5 Mấm biển Avicennia marina (Forsk.) Vierh. Gỗ trung bình Họ Đước Rhizophoraceae 6 Đước (Đước đôi) Rhizophora apiculata BL. Gỗ lớn 7 Đưng Rhizophora mucronata Lume Gỗ lớn 8 Vẹt dù Bruguiera gymnorrhiza (L.) Lam. Gỗ nhỏ 9 Vẹt tách Bruguiera parviflora (Roxb.) Wight & Arn Gỗ trung 10 Vẹt trụ (Vẹt hôi) Bruguiera cylindrica (L.) Bl. Gỗ nhỏ 11 Vẹt khang, Bruguiera sexangula (Lour.) Poiret Gỗ trung 12 Dà quánh Ceriops decandra (Griff.) Ding Hou Gỗ trung 13 Dà vôi Ceriops tagal (Perrottet) C.B. Robinson Gỗ trung 14 Trang Kandelia candel (L.) Druce Gỗ trung Họ Bàng Combretaceae

15 Cóc vàng Lumnitzera racemosa Wild Gỗ nhỏ Họ Ba mảnh vỏ Euphorbiaceae

16 Giá Excoecaria agallocha L. Gỗ nhỏ Họ Xoan Meliaceae

17 Xu ổi Xylocarpus granatum Koenig Gỗ nhỏ Họ Cau dừa Arecaceae

18 Dừa nước Nypafruticans Wurmb 19 Chà Là nước Phoenix paludosa Roxb Họ Ô rô Acanthaceae

20 Ô rô biển Acanthus ilicifolius L. Cây thân cỏ 21 Ô rô trắng Acanthus ebracteatus Vahl. Cây thân cỏ Họ Trôm Sterculiaceae

22 Cui biển Heritiera littoralis Aiton ex Dryander Họ Ráng Pteridaceae

23 Ráng đại Acrostichum aureum L. Dương xỉ 24 Ráng đại Acrostichum speciosum Willd. Dương xỉ Họ Bông Malvaceae

25 Tra * Thespecia populnea (L.) Soland. Ex Cor. Gỗ nhỏ 26 Bụp * Hibiscus tiliaceus L. Gỗ nhỏ

* Ghi chú: Hầu hết các tác giả không đồng ý với 2 loài cuối cùng (25 & 26) được gọi là cây rừng ngập mặn (Duke 1992).

2.3 Sự thích nghi của cây rừng ngập mặn với môi trường

Nghiên cứu sự thích nghi của các loài cây rừng ngập mặn đối với môi trường và nhu cầu sinh lý, sinh

thái của mỗi loài có ý nghĩa rất thiết thực cho việc quản lý bền vững rừng ngập mặn. Việc chọn loài cây

trồng thích hợp cho từng điều kiện cụ thể cần căn cứ vào nhu cầu sinh thái của từng loài cây. Chẳng hạn

nếu trồng cây đước (Rhizophora) trên bãi bồi, ở vùng cửa sông, ngập thủy triều thường xuyên trong

ngày thì cây sẽ chết. Ngược lại, nếu trồng cây mấm (Avicennia), hoặc bần (Sonneratia) ở trên đất khô,

cao không có ngập thủy triều thì cây cũng không thể tồn tại.

Những biện pháp tác động của con người làm cản trở hoặc thay đổi các đặc tính môi trường của hệ sinh

thái đều có thể làm cản trở hoặc ngừng sinh trưởng của các loài cây rừng ngập mặn. Chẳng hạn, việc

đắp đê sẽ làm thay đổi thủy động lực học dòng chảy, ngăn cản quá trình truyền triều, hạn chế sự bồi tụ

phù sa, tích đọng các độc chất trong đất, làm cản trở hô hấp của hệ rễ có thể làm cho cây rừng ngập

mặn ngừng sinh trưởng hoặc bị chết.

Page 17: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

15

Macnae (1966) cho rằng sự thích nghi của rừng ngập mặn với môi trường tạo nên sự phân đới của rừng

ngập mặn ở vùng cửa sông, ven biển. Đây là hiệu quả của sự tương tác giữa các yếu tố (Duke et al.

1998) như tần suất của thủy triều, độ mặn của nước trong đất, mức độ ngập nước của đất. Nhìn chung,

các yếu tố chính ảnh hưởng đến việc phân bố các loài cây rừng ngập mặn là (i) nhiệt độ; (ii) độ mặn của

nước và lượng mưa; (iii) thời gian và mức độ ngập triều; (iv) hoạt động của sóng; (v) sự lưu thông và

trao đổi của dòng nước; và (vi) mức độ thuần thục của đất. Các yếu tố này có ảnh hưởng tương tác với

nhau (Duke 2006), đặc biệt là thời gian và cường độ ngập triều cũng là yếu tố ảnh hưởng đến độ thuần

thục của đất.

Theo FAO (1994), chỉ ra số liệu về sự thay đổi về thành phần thực vật và sự biến đổi của các chỉ tiêu

chất lượng nước được Aksornkoae (1975) theo dõi từ bờ biển vào đất liền được nghiên cứu ở Thái Lan

như trong bảng 3.

Bảng 3: Sự thay đổi về thành phần thực vật và sự biến đổi của các chỉ tiêu chất lượng nước nghiên cứu ở Thái Lan.

STT Tên Việt Nam

Chỉ tiêu chất lượng nước

TOC pH

Độ mặn ‰

DO ml/l

CO mg/l

PO4 NO3 SiO2

1 Dừa nước (Nypa)

Đước (Rhizophora)

29,5 7,2 22,21 4,4 16,00 1,179 2.025 87,57

28,2 6,8 21,18 2,68 17,73 0,966 2.533 9,61

2 Mấm (Avicennia)

Vẹt (Bruguiera)

29,1 7,0 22,04 3,37 17,91 1,290 2.220 94,33

27,9 6,7 20,96 2,36 16,48 0,823 2.418 99,72

3 Xu (Xylocarpus) 28,2 6,8 21,18 2,68 17,73 0,966 2.533 9,61

27,8 6,7 20,67 2,15 16,82 0,838 2.365 92,46

4 Dà (Ceriops)

Cóc (Lumnitzera)

27,8 6,7 20,67 2,15 16,82 0,838 2.365 92,46

27,5 6,6 18,62 1,55 19,82 0,834 2.407 100,82

5 Ráng (Acrostichum)

27,5 6,6 18,62 1,55 19,82 0,834 2.407 100,82

27,6 6,6 19,49 1,7 20,62 0,859 2.590 107,84

Nguồn: Theo Aksornkoae (1975)

Watson (1928), căn cứ vào đặc điểm sinh thái của rừng ngập mặn ở Malaysia đã chia thảm thực vật

rừng ngập mặn ở phía Tây Malaysia thành 5 nhóm thực vật dựa trên tần xuất ngập triều: (i) nhóm thực

vật chịu ngập thủy triều cao nhất, bị ngập khi thủy triều lên cao, từ 0 đến 8 feet, trong nhóm này có bần

(Sonneratia alba); (ii) nhóm thực vật chịu ngập khi thủy triều lên ở mức trung bình, từ 8 đến 11 feet,

chẳng hạn như các loài đước (Rhizophora), các loài vẹt (Bruguiera); (iii) nhóm thực vật bị ngập khi thủy

triều lên cao thường xuyên, từ 11 đến 13 feet, điển hình là xu (Xylocarpus granatum); (iv) nhóm thực vật

bị ngập khi thủy triều lên cao bất thường, từ 13 đến 15 feet, điển hình là cóc (Lumnitzera littora); (v)

nhóm thực vật bị ngập khi thủy triều lên cao đột biến, từ trên 15 feet, chẳng hạn như bụp (Hibiscus

tiliaceus).

De Haan (1931) cho rằng độ mặn là nhân tố đầu tiên và thủy triều là yếu tố thứ hai chi phối sự phân bố

của rừng ngập mặn. Căn cứ vào độ mặn của nước, ông chia vùng ven biển thành hai đới. Đới lợ đến

mặn, có độ mặn từ 10-20‰, ký hiệu là A. Đới ngọt tới lợ, độ mặn dưới 10‰, ký hiệu là B. Trong đới A

chia thành các đới phụ, đới phụ A1 mặt đất bị ngập bởi thủy triều 1-2 lần trong ngày, số ngày ngập thủy

triều trong tháng từ trên 20 ngày; đới phụ A2 mặt đất bị ngập thủy triều từ 10-19 ngày trong tháng; đới

phụ A3 số ngày ngập thủy triều trong tháng dưới 9 ngày; đới phụ A4 chỉ bị ngập thủy triều một ngày trong

tháng. Đới B được chia thành 2 đới phụ, đới phụ B1 thỉnh thoảng bị ảnh hưởng bởi thủy triều, đới phụ B2

ngập nước theo mùa.

Page 18: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

16

2.4 Các quần thụ rừng ngập mặn chủ yếu ở ven biển tỉnh Sóc Trăng

Phân viện Điều tra Quy hoạch Rừng Nam bộ năm 2003, đã mô tả về những loài cây rừng ngập mặn chủ

yếu, mọc thành quần thụ rộng lớn do tái sinh tự nhiên hoặc do gây trồng nhân tạo ở vùng cửa sông ven

biển tỉnh Sóc Trăng (Phân viện ĐTQHR Nam bộ 2003) như sau:

Quần thụ bần, gồm các loài bần chua và bần đắng (Sonneratia spp) mọc tự nhiên. Diện tích năm

2003 là 722 ha. Phân bố ven biển các xã An Thạnh Nam, An Thạnh Ba, Lịch Hội Thượng, và Trung Bình.

Đây là vùng cửa sông và ven biển gần cửa sông Cửu Long.

Quần thụ bần hình thành từ quá trình tái sinh tự nhiên trên các bãi bồi. Ở những bãi bồi mới hình thành,

nền đất là dạng bùn lỏng ngập triều thường ngày theo chế độ bán nhật triều biển Đông. Cùng với sự xuất

hiện của các bãi bồi vùng cửa sông, ven biển, đai rừng ban đầu là những đám cây thưa thớt sau sẽ đông

đặc dần thành quần thụ ổn định. Mật độ của rừng ở khu vực xã Trung Bình (huyện Trần Đề) tới 5.000

cây/ha.

Cây bần sinh trưởng tốt có khả năng gieo giống, lan tỏa ra các diện tích xung quanh. Đai rừng có tác

dụng tốt trong việc chống xói lở, thúc đẩy quá trình bồi tụ phù sa cho bờ biển, giảm nhẹ thiên tai, góp

phần đắc lực phòng hộ sản xuất và an toàn cho các khu dân cư phía sau đai rừng.

Quần thụ mấm mọc tự nhiên loài cây chủ yếu là mấm trắng (Avicennia alba). Diện tích của dạng

rừng này năm 2003 là 162 ha. Phân bố tập trung ở vùng ven biển xã Vĩnh Hải. Rừng mấm tái sinh tự

nhiên trên các bãi bồi ở xa cửa sông, dạng lập địa bùn lỏng ngập triều thường nhật theo chế độ bán nhật

triều biển Đông (Phân viện ĐTQHR Nam bộ 2003).

Rừng sinh trưởng tốt có khả năng gieo giống, lan tỏa ra các diện tích xung quanh, những nơi địa hình

cao rừng mấm sinh trưởng chậm hơn. Qua thời gian dài, mặt đất được nâng lên do quá trình bồi tụ phù

sa, các quần xã mấm, bần sẽ bị thoái hóa, sinh trưởng chậm và xấu dần nhường chỗ cho các loài khác

như đước (Rhizophora), và cóc (Lumnitzera).

Quần thụ bần trồng. Diện tích thống kê năm 2003 là 1.355 ha. Phân bố ở các xã An Thạnh Nam, An

Thạnh Ba, Lịch Hội Thượng, Trung Bình, Liêu Tú, Vĩnh Hải. Rừng bần được trồng trên các bãi bồi, dạng

lập địa bùn lỏng ngập triều thường nhật theo chế độ bán nhật triều biển Đông, cùng với sự xuất hiện của

các bãi bồi vùng cửa sông, ven biển.

Quần thụ mấm trồng. Diện tích thống kê năm 2003 là 440 ha, phân bố ven biển các xã Vĩnh Hải, Lạc

Hòa, Vĩnh Châu.

Quần thụ đước trồng. Diện tích thống kê năm 2003 là 254,14 ha, phân bố ven biển các xã Lai Hòa,

Vĩnh Phước, Vĩnh Tân, Lạc Hòa, Vĩnh Châu và Vĩnh Hải. Quần thụ thực vật này được trồng tập trung

hay hỗn giao trong rừng mấm tái sinh tự nhiên ven biển trên các bãi bồi, dạng lập địa bùn lỏng ngập triều

thường nhật theo chế độ bán nhật triều biển Đông.

Cây rừng sinh trưởng tốt có khả năng gieo giống, những nơi địa hình cao thủy triều không lên tới lô, rừng

sinh trưởng chậm hơn. Nhiều diện tích rừng được đào rãnh đem nước triều vào rừng và có tác dụng tốt

cho cây rừng.

2.5. Các dịch vụ và giá trị của rừng ngập mặn

Howe và các cộng sự, (1991) đã liệt kê các giá trị và chức năng của rừng ngập mặn và những tác động

có thể làm mất hoặc làm giảm các giá trị và chức năng đó.

Rừng ngập mặn bảo vệ vùng ven biển chống sóng, xói lở bờ biển, hạn chế gió và thúc đẩy quá

trình bồi tụ phù sa

Nhờ có hệ rễ phát triển ăn sâu xuống đất, làm cho nền đất trở nên vững chắc. Tán lá rộng với cành vững

chắc giảm nhẹ xung động của sóng, làm giảm xung lực của sóng tác động vào bờ biển. Nghiên cứu của

Page 19: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

17

Mazda (1997) đã có kết luận rằng, dải rừng ngập mặn 6 tuổi với chiều rộng là 1,5 km có thể giảm độ cao

sóng từ 1 mét ở ngoài khơi còn 0,05 m khi vào tới bờ. Sự giảm sóng phụ thuộc vào loài cây rừng ngập

mặn, điều kiện thảm thực vật, độ sâu mực nước và điều kiện sóng xuất hiện (Mazda 2006).

Cây rừng ngập mặn cũng hạn chế gió từ biển vào lục địa, luồng gió thổi từ biển vào đất liền khi gặp đai

rừng ngập mặn thì cường độ của gió sẽ bị giảm đi. Các đai rừng ngập mặn có tác dụng làm giảm mạnh

độ cao của sóng khi triều cường. Nếu gặp đai rừng dày và rộng, luồng gió sẽ đổi hướng vượt qua tán

rừng, những khu dân cư và cơ sở hạ tầng ở phía sau đai rừng sẽ được bảo vệ, mức độ thiệt hại sẽ giảm

đi rất nhiều so với tình trạng không có đai rừng bảo vệ.

Nghiên cứu của Mazda (1997) ở xã Thụy Hải, (huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) trong thời gian có triều

cường từ ngày 17 đến 21/11/1994 cho thấy rừng trang (Kandelia candel) trồng sáu tuổi với chiều rộng

1,5 km đã giảm độ cao của sóng từ 1 m ở ngoài khơi xuống còn 0,05 m khi vào tới bờ đầm cua và bờ

đầm không bị xói lở. Còn nơi không có rừng ở gần đó, cùng một khoảng cách như thế thì độ cao của

sóng cách bờ đầm 1,5 km là 1 m, khi vào đến bờ vẫn còn 0,75 m và bờ đầm bị xói lở.

Hệ thống rễ cây rừng ngập mặn cũng giữ lại các chất trầm tích từ đất liền đưa ra biển. Các chất trầm tích

này trộn với lớp thảm mục, tàn tích hữu cơ được phân rã làm cho nền đất nâng cao. Nhờ tác dụng hỗ trợ

của đai rừng ngập mặn, các bãi bồi hàng năm lấn ra biển như ở cửa sông Cửu Long và mũi Cà Mau lấn

ra biển hàng trăm mét.

Rừng ngập mặn là nguồn dinh dưỡng của rất nhiều loài sinh vật ở vùng cửa sông ven biển, đó là những

vũng dinh dưỡng quan trọng cho nhiều loài thủy sinh.

Những vùng bãi biển ngập triều và các kênh rạch ở vùng cửa sông ven biển khi thuỷ triều xuống là

những bãi kiếm ăn lý tưởng cho các loài chim. Theo Quỹ Công lý Môi trường (EJF 2003), rừng ngập mặn

ở vùng cửa sông, ven biển đồng bằng sông Cửu Long có 386 loài và phụ loài chim, 260 loài cá, hàng

trăm loài động vật xương sống.

Hình 10: Rừng ngập mặn bảo vệ các cộng đồng ở vùng ven biển. Trái: Bờ biển với đai rừng

bảo vệ. Mặt: Bờ biển không có đai rừng bảo vệ.

Page 20: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

18

Ở vùng cửa sông Cửu Long, một nghiên cứu tại Thạnh Phú (Bến Tre) (Thọ 1998) đã thống kê được 27

loài bò sát, 8 loài lưỡng cư, 16 loài động vật có vú và 60 loài chim. Một số loài hiếm và có nguy cơ bị đe

dọa được phát hiện ở đây như Tắc kè (Gekko gekko), Kỳ đà hoa (Varanus salvator), Rái cá lông mượt

(Lutra perspicilata), Mèo cá (Felis viverina), Bồ

nông (Pelecanus philipensis), Cò lạo xám

(Mycteria cinerea).

Có 185 loài thực vật nổi trong rừng ngập mặn

Thạnh Phú (Bến Tre) trong đó, nhóm

Bacillariophyta chiếm 79%, cũng như 93 loài

động vật nổi, bao gồm 57 loài của nhóm

Arthropoda (62.29%), và 90 loài động vật đáy,

bao gồm 41 loài thuộc nhóm Arthropoda

(45.56%). Vùng cửa sông có 661 loài cá thuộc

319 họ, trong đó số loài cá sống ở tầng đáy và

gần đáy chiếm khoảng 72%, họ cá mối

(Priacanthidae) chiếm 54,43%, họ cá khế

(Canrangidae) chiếm 25,5%, và họ cá trác

(Priancabidae) chiếm 3,79% (Hằng 2003).

Các loài cá sống ở tầng nổi chiếm 28%, tầng trung

và nổi có các loài cá bạc má (scads), cá nục

(anchovy), cá mối vạch (lizardfish), cá chuồn đen

(flying fish), và cá thu vạch (codfish). Khoảng 68%

cá biển sống gần bờ và phụ thuộc vào năng suất

của thảm thực vật rừng ngập mặn, trong khi 32%

còn lại sống trong các hệ sinh thái nước sâu (Hằng

2003).

Có 20 loài tôm trong rừng ngập mặn Thạnh Phú

tỉnh Bến Tre (Hằng 2003). Chúng gồm 12 loài tôm

biển thuộc 5 họ và 8 loài tôm nước ngọt.

Các loài tôm thương mại có giá trị cao như

Penaeus indicus; Metapeneus ensis, M. lysanassa

và M. spinulatus. Nghêu giống xuất hiện ở hầu hết

các bãi bồi vùng cửa sông, đã đem lại nguồn thu

nhập rất quan trọng cho người dân địa phương.

Các nhà khoa học đã chứng minh mối liên hệ

khăng khít giữa việc khôi phục rừng ngập mặn và

sản lượng hải sản, (Pedersen 1996). Mỗi ha rừng

ngập mặn có thể duy trì sản lượng đánh bắt hàng

năm khoảng 450 kg (Hinrichsen 1999). Giá trị sinh

thái và lợi ích rừng ngập mặn có thể được thấy

trong Hình 11 và Hình 12.

Hình 11: Rừng ngập mặn - nơi nuôi dưỡng và bảo

vệ các loài tôm, cua (vẽ lại với sự cho

phép của Bùi Thị Nga và Huỳnh Quốc

Tinh, 2008).

Hình 12: Giá trị tàng trữ Carbon của rừng ngập

mặn (vẽ lại và viết lại với sự cho phép

của Trí, 2007).

Page 21: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

19

Cung cấp nhiều sản phẩm trực tiếp cho nhân dân địa phương

Công dụng của các loài cây rừng ngập mặn rất đa dạng. Phan Nguyên Hồng và Hoàng Thị Sản đã thống

kê được 30 loài cây cung cấp gỗ, than và củi; 14 loài cây cho tanin; 24 loài cây cho phân xanh, cải tạo

đất hoặc giữ đất; 21 loài cây dùng làm thuốc; 9 loài cây chủ thả cánh kiến đỏ; 21 loài cây cho mật ong; 1

loài cây cho nhựa hay đường để sản xuất nước giải khát (Hồng và Sản 1993).

Đước, Bần, Mấm, Vẹt là những loài cây gỗ có kích thức lớn, tăng trưởng nhanh. Cây Đước (Rhizophora

apiculata) trưởng thành đạt đến kích thước đường kính tại tầm cao ngang ngực 40 cm và cao 25 m. Cây

Đước ở Cà Mau tăng trưởng hằng năm đến mức 1,2 cm/năm đường kính và 0,85 m/năm cho chiều cao.

Hằng năm, rừng đước trồng có thể đạt năng suất 20 m3/ha/năm trong 1 chu kỳ 25 năm. Gỗ Đước được

sử dụng để làm đồ nội thất và nhiều mặt hàng khác liên quan đến xây dựng nhà cửa.

Than hầm từ các loài Đước, Vẹt là nguồn năng lượng quan trọng. Theo truyền thống, nhân dân vùng ven

biển, và ngư dân đánh bắt hải sản rất ưa thích dùng than hầm từ đước. Trong một số ngành công

nghiệp, than đước rất được ưa chuộng do cug cấp nhiệt lượng cao tương tự như than đá (6.375-6.675

calo/kg). Ở vùng ven biển Nam Bộ, cho đến ngày nay, than đước vẫn là sản phẩm được sử dụng rất

rộng rãi. Năng suất than ở nước ta tính theo trọng lượng gỗ trung bình là 20%, hay 1 ster củi nặng 800

kg sau khi đốt được 165 kg than.

Tanin là loại sản phẩm có tỷ lệ cao trong vỏ của các loài cây rừng ngập mặn. Tỷ lệ tanin chứa trong vỏ

các loài cây rừng ngập mặn như sau: Dà (29,85%), Vẹt (13,6%), Cóc (13,4%), và Đước (12,2%). Dừa

nước (Nipa fruticans) là một loài cây hữu ích cho người dân địa phương. Lá dừa nước để lợp nhà, làm

vách. Quả ăn được, các chất nhựa từ cuống cụm hoa có thể sản xuất đường, rượu, giấm ăn. Cây có tác

dụng giữ bờ kênh khỏi bị xói lở (Lợi 1972).

Là nơi du lịch, giải trí, và nghiên cứu khoa học

Do cảnh quan thiên nhiên hoang sơ và hùng vĩ, khí hậu mát lành, làm cho các khu rừng ngập mặn ở

vùng ven biển là những nơi vui chơi, giải trí lý tưởng, cuốn hút du khách khắp mọi miền trên thế giới.

Nhiều khu rừng ngập mặn ở nước ta là nơi du lịch sinh thái rất nổi tiếng như Cần Giờ và Mũi Cà Mau.

Rừng ngập mặn tại tỉnh Sóc Trăng có tiềm năng lớn cho du lịch nếu được bảo vệ tốt. Sự sinh động và kỳ

bí của hệ sinh thái rừng ngập mặn luôn luôn lôi cuốn sự đam mê các nhà khoa học trong nghiên cứu và

sáng tạo.

Bảo tồn các giá trị văn hóa và các giá trị của thiên nhiên

Các khu rừng ngập mặn ở ven biển cửa sông tỉnh Sóc Trăng có giá trị quan trọng đối với việc bảo vệ

cảnh quan của vùng đất ngập nước, hỗ trợ các quá trình sinh thái ở vùng cửa sông, ven biển. Đặc biệt là

duy trì quá trình diễn thế tự nhiên của hệ sinh thái rừng ngập mặn.

Vai trò của rừng ngập mặn trong việc đối phó với mực nước biển dâng / tác động của biến đổi khí

hậu

Những năm gần đây, tác hại của biến đổi khí hậu đối với tài nguyên thiên nhiên và xã hội ngày càng rõ

rệt hơn, với quy mô và cường độ ngày càng tăng. Những vùng đất thấp, ngập nước ven biển cũng là đối

tượng bị đe dọa bởi sóng lớn và gió mạnh. Tuy nhiên, hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng là tác nhân hạn

chế các tác hại của sự biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiệt hại do nước biển dâng.

Các khu rừng ngập mặn có hệ thống rễ dày đặc trên mặt đất như hệ rễ hình chân nơm của các loài

đước, đưng, rễ hình đầu gối của các loài vẹt, rễ thở hình chông của các loài mấm, bần, hấp thụ năng

lượng sóng. Với lớp tán lá dày và thân, cành cây, tạo thành lớp rào bằng vật liệu mềm giảm sức công

phá của sóng triều. Cũng nhờ lớp thảm thực vật cản sóng, lượng phù sa và mùn bã hữu cơ tại chỗ được

tích lũy làm cho mặt đất được cố định và nâng cao. Nhờ đó, các trụ mầm và quả, hạt của các loài cây

ngập mặn nhanh chóng tái sinh chiếm cứ vùng bãi bồi.

Page 22: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

20

Các tuyến đê ngăn mặn ở huyện Thái Thụy (huyện Thái Thủy, tỉnh Thái Bình) dài 86,6 km, được xây

dựng từ lâu đời, việc đắp đê chủ yếu bằng lao động thủ công. Các cơn bão số 6 và số 7 năm 2005 đúng

vào lúc triều cường gây ra sóng lớn nhưng các tuyến đê ở Thái Thụy không bị xói lở nhờ các dải rừng

ngập mặn trồng từ phía sau khi đê Xuân Hải bị vỡ năm 1996. Ghi nhận đóng góp này, ngành nông

nghiệp xác định việc khôi phục rừng ngập mặn là một đầu tư quan trọng cho việc bảo quản các đê biển.

Các khu rừng ngập mặn cũng góp phần hạn chế xâm nhập nước mặn và bảo vệ nước ngầm. Ở những

thành phố và thị trấn ở vùng ven biển tình trạng triều cường đã gây ngập nhiều khu dân cư, trong đó có

một nguyên nhân là hầu hết các kênh rạch trước đây có những dải cây dừa nước và nhiều loài cây ngập

mặn khác như bần, mấm, su, trang đã bị chặt phá và lấp đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu dân

cư cho nên không có chỗ cho nước thoát.

Rừng ngập mặn là nơi bảo vệ các động vật khi nước triều dâng và sóng lớn. Nhiều loài động vật đáy

sống trong hang hoặc trên mặt bùn, khi thời tiết bất lợi, nước triều cao, sóng lớn đã trèo lên cây để tránh

sóng như như cua nhỏ và ốc sên. Khi lặng gió và triều xuống thấp chúng trở lại nơi sống cũ. Do đó mà

tính đa dạng sinh học trong hệ sinh thái rừng ngập mặn được ổn định. Nhờ các mùn bã được phân hủy

tại chỗ và các chất thải do sông mang đến được phân giải nhanh tạo ra nguồn thức ăn phong phú, thuận

lợi cho sự hồi phục và phát triển của động vật sau các thiên tai.

Định lượng các giá trị của rừng ngập mặn

Theo “Định giá Kinh tế những Sử dụng khác nhau của Rừng ngập mặn tại Sri Lanka”, giá trị kinh tế hàng

năm của mỗi ha rừng ngập mặn ở Sri Lanka đã được xác định như sau:

- Tài nguyên rừng ngoài gỗ là US$ 108

- Giá trị giải trí ở cấp địa phương là US$ 933

- Giá trị giải trí ở cấp toàn cầu là US$ 1.196

- Giá trị của sự lựa chọn ở cấp toàn cầu là US$ 1.039

- Giá trị của sự lựa chọn ở cấp địa phương là US$ 1.491

- Giá trị di sản ở cấp toàn cầu là US$ 562

- Giá trị di sản ở cấp địa phương là US$ 1.714

- Giá trị tồn tại ở cấp toàn cầu là US$ 1.399

- Giá trị tồn tại ở cấp địa phương là US$ 883

- Lợi ích cung cấp nơi kiếm ăn cho cá là US$ 218

- Lợi ích kiểm soát xói lở là US$ 3,6

- Lợi ích bảo tồn đa dạng sinh học là US$ 18

- Lợi ích tồn trữ Carbon là US$ 75

- Lợi ích bảo vệ chống gió bão là US$ 76

- Lợi ích xử lý ô nhiễm là US$ 4.494

- Theo kết quả nghiên cứu này, tổng giá trị kinh tế của rừng ngập mặn được bảo tồn đã được ước

định cho mỗi ha, hàng năm là US$ 12.229.

Theo Tạp chí của Viện khoa học hàn lâm quốc gia phát hành ngày 21 tháng 7 năm 2008, các nhà khoa

học tại Viện Hải dương học Scripps tại UC San Diego, viết trong ấn bản trực tuyến mới, đã cho thấy rằng

rừng ngập mặn Mexico - những cây hình thành hệ sinh thái rừng tại giao diện đất-biển - đã làm tăng rõ

rệt sản lượng cá ở vịnh California (PNAS 2008).

Họ đã tìm thấy 13 vùng đánh cá khác nhau ở vịnh California, sản xuất bình quân hàng năm 11.500 tấn

ghẹ xanh và cá có nguồn gốc từ rừng ngập mặn, trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005, tạo ra

khoảng 19 triệu USD cho ngư dân địa phương.

Giá trị hằng năm dịch vụ môi trường rừng ngập mặn trên thế giới đã được ước tính hơn 1,6 tỷ USD. Các

dịch vụ cho con người bao gồm điều hoà khí hậu, bảo vệ nguồn nước sạch, hạn chế xói lở ven biển, xử

lý chất thải, cung cấp lương thực thức ăn và giải trí.

Page 23: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

21

Các nhà nghiên cứu đã định lượng được các yếu tố kinh tế, địa lý và sinh thái của rừng ngập mặn và xác

định 1 ha (10.000 mét vuông, hoặc khoảng 2.5 mẫu Anh) bìa rừng ngập mặn – bìa rừng ngập mặn tiếp

xúc với biển - trong vịnh California có giá trị trung bình khoảng 37.500 USD mỗi năm. Các dải rừng ngập

mặn đặc biệt quan trọng cho sự khỏe mạnh lâu dài của nhiều người dân khác mà sinh kế phụ thuộc vào

nguồn tài nguyên cá ở vùng này.

Tại Sóc Trăng, tài nguyên thủy sản ven biển trong rừng Bần (Sonneratia Caseolaris) ở vùng cửa sông,

ven biển rất phong phú. Phương pháp thu hoạch thủy sản của người dân ở đây cũng rất đa dạng phụ

thuộc vào giới tính và tuổi. Trong khi những người đàn ông tìm cách bắt cá, đàn bà và trẻ em bắt cua

con, và các sinh vật thủy sinh khác như nghêu, động vật có vỏ. Những nguồn tài nguyên này đóng góp

vào thu nhập và sinh kế của những người dân sống ở vùng ven biển. Những đai rừng bần tạo ra điều

kiện môi trường thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản ở vùng đệm và giữ vai trò như những dải đệm lọc

nước lớn để nông dân dẩn nước sạch vào những vuông nuôi trồng thuỷ sản hay lọc nước thải từ các

vuông nuôi trồng thuỷ sản.

Đất ngập nước vùng cửa sông có giá trị kinh tế cao; Theo Nguyễn Hữu Ninh và Mai Trọng Nhuận (Ninh

2003), giá trị kinh tế của rừng ngập mặn ở vùng cửa sông Cửu Long có thể ước tính là 3.099,36

USD/ha/năm, gồm giá trị từ nguồn gỗ và củi, và giá trị gián tiếp là 3.083 USD/ha/năm.

Sản lượng tính toán theo lý thuyết phù hợp một cách hợp lý với số liệu về sản lượng đánh bắt và điều

này có nghĩa là 1 ha diện tích rừng ngập mặn mang lại gần 700 kg sản lượng hải sản đánh bắt.

Tóm tắt các dịch vụ và giá trị của rừng ngập mặn

Các dịch vụ của Rừng ngập mặn

Ngăn chặn lan tràn nước mặn và sóng

Chống bão, gió, bảo vệ bờ biển, lấn biển

Giảm nhẹ thiệt hại, bảo vệ đê biển và các công trình ở vùng ven biển

Lưu trữ dinh dưỡng

Sản xuất sinh khối

Duy trì các quá trình sinh thái tự nhiên ở vùng ven biển

Du lịch, giải trí, nghiên cứu khoa học

Cung cấp sản phẩm

Tài nguyên gỗ, củi, lâm sản ngoài gỗ, dược liệu

Tài nguyên động vật hoang dã

Tài nguyên thủy sản

Các thuộc tính

Đa dạng sinh học

Di sản văn hóa bản địa

Chính vì những lẽ đó cần quản lý và phát triển rừng ngập mặn như một phần của giải pháp cho chiến

lược đối phó với biến đổi khí hậu.

Page 24: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

22

3. Diễn biến tài nguyên rừng ở vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng và hậu quả về môi trường

3.1 Diễn biến tài nguyên rừng ngập mặn

Nằm tại cửa sông Cửu Long, vùng ven biển Sóc Trăng cung cấp những điều kiện tự nhiên thuận lợi cho

thảm thực vật rừng ngập mặn, với Bần đắng (Sonneratia caseolaris) và Mấm (Avicennia. marina) là các

loài cây rừng ngập mặn chiếm ưu thế một cách tự nhiên trong các quần thể lớn.

Những thay đổi về độ che phủ rừng ngập mặn dọc theo đường bờ biển Sóc Trăng từ 1965 đến 2007 đã

được phân tích dựa trên bản đồ địa hình (tỷ lệ 1:50.000 (tờ số 6117IV, 1965), và giải đoán ảnh vệ tinh

(ảnh vệ tinh SPOT 1995, Landsat ETM tháng 12/2001 và QuickBird 2007). Các kết quả được thể hiện

trong hình 13. Để biết biến đổi đường bờ biển và độ che phủ rừng ngập mặn từ 1889 - 1965, xem Joffre

(2010).

Bản đồ địa hình xây dựng năm 1965 cho thấy rừng ngập mặn phân bố ở ven cửa sông xã An Thạnh

Nam (huyện Cù Lao Dung), xã Trung Bình và Lịch Hội Thượng (huyện Trần Đề), xã Lạc Hòa (huyện Vĩnh

Châu). Trong thời gian này, các dải rừng ngập mặn ở ven sông Mỹ Thanh và rạch Trà Niên lấn sâu vào

đất liền tới 15 km. Tổng diện tích những đám rừng dày, mọc tập trung ở sát ven biển thuộc các xã An

Thạnh Nam, Lịch Hội Thượng và Lạc Hòa đã xác định được khoảng 4.003 ha. Thành phần loài cây chủ

yếu là bần (Sonneratia) và dừa nước (Nypa fruticans).

Từ 1977 - 1982, nhân dân địa phương trồng lại rừng trên những vùng đất trống không có rừng; một số

khu vực được tái sinh tự nhiên do điều kiện phù hợp về mặt thủy triều, đất, và giống. Điều này làm cho

diện tích rừng tăng nhanh. Tuy nhiên, tới cuối thập niên 1980 trở đi nhiều khu rừng được chuyển đổi

sang sản xuất nông nghiệp và nuôi tôm nên diện tích rừng giảm nhanh.

Trong những năm 1990, việc quy hoạch kém cho chặt cây cùng với các hoạt động chuyển hóa rừng

ngập mặn thành đất nuôi trồng thủy sản và canh tác nông nghiệp đã là những nguyên nhân chính làm

cho rừng ngập mặn bị cạn kiệt trên quy mô lớn, hậu quả là xói lở bờ biển và xâm nhập mặn vào đất liền.

Theo số liệu điều tra thống kê Viện Điều tra Quy hoạch Rừng xuất bản, Bộ Lâm Nghiệp năm 1983, tổng

diện tích đất có rừng ngập mặn ở tỉnh Sóc Trăng là 3.000 ha.

Năm 1995, như một phần của dự án tái tạo rừng ngập mặn ven biển do Viện Điều tra Quy hoạch Rừng

thực hiện đã thống kê được 4.585 ha rừng ngập mặn qua sử dụng ảnh vệ tinh SPOT. Giai đoạn từ năm

1995 đến 1998, dự án MILIEV đã trồng được 98 ha rừng ngập mặn ở huyện Vĩnh Châu và Trần Đề của

tỉnh Sóc Trăng.

Năm 2001, tổng diện tích rừng ngập mặn ở vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng đã thống kê được 4.336 ha từ

ảnh vệ tinh Landsat ETM, chụp ngày 11 tháng 12 năm 2001. Phân Viện Điều tra Quy hoạch Rừng Nam

bộ (2003) đã thống kê được 2.990,79 ha đất có rừng ngập mặn, trong đó, diện tích rừng tự nhiên là

884,07 ha, gồm rừng Bần 721,91 ha và rừng Mấm 162,16 ha. Diện tích rừng trồng là 2.106,72 ha, gồm

1.354,87 ha rừng Bần, 199,6 ha rừng Đước, và 440,14 ha rừng Đước trồng xen trong rừng Mấm.

Trong giai đoạn 15 năm từ năm 1980 đến năm 1996, tại các cửa sông Cửu Long bao gồm 3 tỉnh Bến

Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng, 37.349 ha đất lâm nghiệp được chuyển đổi thành đất canh tác nông nghiệp

và cho các sử dụng khác. Đây là những khu vực rừng tự nhiên, rừng trồng và đất bụi rậm. Riêng trong

giai đoạn 6 năm từ năm 1980 đến năm 1986, mỗi năm diện tích rừng ngập mặn biến mất 4.833 ha. Giai

đoạn từ năm 1986 đến năm 1996, mỗi năm diện tích rừng thu hẹp 850 ha (Thịnh 1996). Hình 14 trình

bày sự thay đổi diện tích rừng ngập mặn tại Sóc Trăng từ năm 1965 đến 2007.

Page 25: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

23

Page 26: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

24

Page 27: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

25

Page 28: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

26

Hình 13: Trình bày bản đồ diễn biến hiện trạng rừng ngập mặn dọc theo bờ biển tỉnh Sóc Trăng năm 1965, 1995, 2001 và 2008.

Page 29: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

27

Hình 14: Sự thay đổi diện tích rừng ngập mặn tại Sóc Trăng.

3.2. Những nguyên nhân gây suy giảm tài nguyên rừng ngập mặn

Do được hình thành ở vùng ven biển và cửa sông nên rừng ngập mặn thường được nhận định là những

hệ sinh thái mở. Các hệ sinh thái rừng ngập mặn luôn luôn trao đổi với bên ngoài thông qua các quá

trình tác động thủy triều, ngập úng và lắng đọng trầm tích. Bất kỳ tác động nào, làm xáo trộn quá trình

sinh thái của rừng ngập mặn, do đó sẽ làm thay đổi môi trường và làm tổn thương hệ sinh thái. Những

nhân tố làm xáo trộn thuộc tính môi trường của rừng ngập mặn có thể do các nguyên nhân sau (Howe et

al. 1991):

(i) Những tác động làm thay đổi chế độ thủy văn, ngăn chặn sự lưu thông của thủy triều;

(ii) Những hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng, ngăn chặn dòng chảy;

(iii) Những hoạt động chặt phá lớp thảm thực vật, thu hoạch quá mức hệ động vật;

(iv) Làm thay đổi nền đất; và

(v) Các tác nhân gây ô nhiễm dầu, hóa chất hoặc chất thải.

Trong thời gian qua, rừng ngập mặn Sóc Trăng đã bị suy giảm trầm trọng. Các nguyên nhân gây giảm

sút tài nguyên rừng ngập mặn bao gồm (i) mở rộng diện tích nuôi tôm trong rừng ngập mặn, (ii) nhận

thức yếu kém của cộng đồng về các giá trị, chức năng và thiếu các kỹ năng sử dụng bền vững, và (iii) xói

lở bờ biển. Những nguyên nhân trên đây đã dẫn tới hàng loạt các hậu quả tiêu cực về môi trường và xã

hội cho vùng ven biển.

a) Khai phá rừng ngập mặn để nuôi tôm

Phong trào nuôi tôm trong rừng ngập mặn ở tỉnh Sóc Trăng bắt đầu năm 1987 khi ngành thủy sản mới

bắt đầu xuất khẩu tôm khô và tôm đông lạnh ra thị trường của các nước.

Các hình thức nuôi tôm bao gồm: quảng canh, quảng canh cải tiến, bán thâm canh hay thâm canh.

„Quảng canh‟ và „quảng canh cải tiến‟ là các hệ thống phổ biến cho các khu vực rừng ngập mặn. Các trại

nuôi trồng thủy sản được mở rộng quy mô lên đến 10 ha, với rừng được bao quanh bởi các bờ để giữ

nước và cây rừng ngập mặn bị chặt để làm kênh. Những mương này rộng 10 m và sâu từ 1,5-2,0 m.

Nước trong vuông được điều tiết bằng các cống, với 1 đến 2 cống cho mỗi ao. Trong các ao với chỉ 1

cống duy nhất, nước triều vào và ra qua cùng một cống. Trong các ao với 2 cống, nước triều vào qua 1

cống và ra qua 1 cống khác.

Năm

Page 30: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

28

Trong thời gian thủy triều lên vào khoảng đầu hay giữa tháng âm lịch, cống được mở ra và tôm con và

ấu trùng thủy sinh trong thiên nhiên sẽ vào trong ao qua các cống theo dòng thủy triều. Sau đó cống

được đóng lại và nước được giữ trong thời gian ngắn từ 30 – 45 ngày, tạo điều kiện cho tôm trưởng

thành; ao hoạt động như cái bẫy, thức ăn cho sinh vật thủy sinh và tôm có sẵn trong ao. Trong trường

hợp các trại nuôi theo „quảng canh cải tiến‟, con giống và thức ăn được thêm vào. Sau vài tuần giữ

nước, khi thủy triều xuống, cống được mở ra để tháo cạn nước ra ngoài. Nông dân sử dụng lưới để bắt

toàn bộ tôm cá trong vuông tôm, một số nông dân tháo cạn nước trong ao sau 15 ngày để bắt toàn bộ

các sinh vật thủy sinh trong vuông. Họ không thể chờ cho các sinh vật thủy sinh trưởng thành, nhưng họ

phải kiếm đủ tiền cho chi phí sinh hoạt của họ.

Trong 2 hay 3 năm đầu sau khi rừng bị phá, những ao nuôi thuỷ sản này còn giàu chất dinh dưỡng và

con giống có sẵn trong ao. Khi có ít người nuôi thì lượng giống thuỷ sản tự nhiên còn phong phú, lúc đó

năng suất của các ao nuôi thuỷ sản tương đối khá, mỗi ha hàng năm thu được khoảng 300 đến 400 kg.

Những năm sau đó, do kỹ thuật canh tác không thích hợp, nước lưu trữ trong các ao nuôi lâu ngày, các

vật chất hữu cơ tích đọng ở đáy ao nuôi, môi trường nước bị ô nhiễm, nguồn giống tự nhiên bị giảm dần

cùng với việc gia tăng diện tích các ao.

Nhiều tác động tiêu cực kết nối với ô nhiễm môi trường và bệnh tật gây ra do thất bại của các hệ thống

nuôi trồng thủy sản. Với thời gian ngập úng lâu dài, thủy triều lưu thông rất hạn chế, do đó các chất hữu

cơ tích tụ ở dưới đáy và độ độc được tạo ra bởi các hoạt động nuôi trồng tác động nghiêm trọng đến cây

rừng ngập mặn. Chúng dần dần ngừng phát triển và cuối cùng thì chết.

Vào những năm thập kỷ 90, Vĩnh Châu là một trong những huyện sử dụng nhiều diện tích đất rừng ngập

mặn để nuôi tôm tại các xã ven biển. Do thiếu kỹ thuật nuôi nên chỉ trong thời gian ngắn đã thất bại, mất

mát rất nhiều tiền của và công lao động. Một diện tích đáng kể của rừng ngập mặn bị phá, sau này trở

thành đất hoang hóa với toàn bộ cây bụi thấp như lức, ô rô, cóc kèn, chà là.

Cũng trong thời gian này, một số gia đình trong vùng kinh tế mới (hợp tác xã Vĩnh Phước, Vĩnh Tiến) đã

sử dụng một số đất hoang hóa hoặc rừng thứ sinh xây dựng những vuông tôm nhỏ, trung bình từ 0,5 – 3

ha với lực lượng lao động gia đình và họ cũng không nắm được kỹ thuật nuôi, không đủ vốn, hơn nữa

môi trường nước có nhiều thay đổi, nên dẫn đến thất bại. Phần lớn cộng đồng người dân vùng kinh tế

mới còn nợ ngân hàng, do hậu quả của việc nuôi tôm không hiệu quả.

Rừng rậm được coi là lý do cho sự thất bại của việc nuôi tôm, bởi vì nó sản xuất quá nhiều sinh khối, sau

đó được tích lũy ở đáy ao, làm giảm oxy và đưa độc chất vào trong nước. Vì vậy, nông dân cố gắng phá

rừng để có nước mặt thoáng nhiều hơn cho trang trại của họ, làm các khu rừng ngập mặn suy thoái

nhanh chóng hơn.

Sản lượng đánh bắt từ tự nhiên ngày một giảm nên mọi người đổ xô vào việc phá rừng để nuôi tôm.

Nhiều người dân địa phương đã bỏ nghề truyền thống của mình như đóng đáy, đi biển, làm rẫy để chặt

cây đắp bờ nuôi tôm hoặc làm thuê cho những người nuôi tôm khác. Không chỉ có dân sống trong rừng

ngập mặn đào vuông nuôi tôm, mà cả các gia đình ở vùng lân cận cũng đến chiếm đất làm nhà tạm thời

để nuôi tôm trong rừng ngập mặn ven biển.

Những lợi ích to lớn của nghề nuôi tôm làm những người giàu bỏ tiền ra thuê nhân công và mua cơ giới

để lập các trại nuôi tôm trong rừng ngập mặn. Nhiều cơ quan chính phủ và các cá nhân được giao đất

trong rừng ngập mặn và cũng đã cố gắng để chuyển đổi những vùng đất này thành các trang trại nuôi

tôm hay cho thuê đất để nuôi tôm. Việc giao đất để nuôi tôm thì tùy ý không theo bất kỳ phương pháp lập

kế hoạch nào. Cấp huyện và thậm chí chính quyền cấp xã có thể giao đất lâm nghiệp cho nông dân mà

không có bất kỳ xem xét hay đánh giá quy hoạch sử dụng đất, điều này cũng đã góp phần làm suy thoái

rừng ngập mặn.

Chỉ trong vòng 5 năm, từ năm 1987 – 1997, diện tích ở rừng huyện Vĩnh Châu đã giảm hàng ngàn ha,

chủ yếu do phá rừng nuôi tôm. Một số như xã Vĩnh Phước, Lai Hòa, Vĩnh Tiến coi như đã phá hết rừng.

Việc phá rừng nuôi tôm như trong Hình 15 và 16 được nhận thấy phổ biến trong vùng ven biển.

Page 31: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

29

b) Khai phá rừng ngập mặn để sản xuất nông nghiệp

Đất thuộc rừng ngập mặn có độ mặn cao và không phù hợp cho hầu hết bất kỳ cây trồng nào, nhưng đất

bồi thì mầu mở. Trong mùa mưa và ở những nơi có nước ngọt, người dân khai phá rừng để trồng rẫy

khô. Rừng ngập mặn ở các vùng cửa sông ven biển thường bị chặt phá để trồng cây nông nghiệp như:

hành, thuốc lá, dưa hấu, bí, ớt, đậu xanh, etc. nhưng kết quả không giống nhau. Nhưng nơi nào có địa

hình thuận lợi, chủ động nguồn nước tưới thì hiệu quả cao hơn. Những người dân di cư dần dần phá

rừng ngập mặn để canh tác nông nghiệp trong khu vực Hồ Lạng gần cửa sông Mỹ Thanh.

Một số nơi khác phá rừng để lấy đất trồng dừa nhưng không thành công và gây hậu quả sinh thái xấu, do

không nắm vững quá trình diễn biến của đất. Điển hình nhất là việc trồng dừa tại ấp Giồng Chùa, xã Vĩnh

Hải, huyện Vĩnh Châu. Theo kế hoạch của tỉnh Hậu Giang (cũ) sẽ khai phá diện tích 550 ha rừng ngập

mặn tại cửa sông Mỹ Thanh để trồng dừa. Sau 5 năm trồng dừa thì đất cũng thoái hóa, tất cả dừa đều

chết. Tương tự, hai hợp tác xã muối tại Vĩnh Phước, Vĩnh Tiến đã phá rừng ngập mặn và đầu tư hàng

chục triệu đồng (thập kỷ 80) để lên líp trồng dừa và để lại hậu quả là mặt đất cứng, nứt nẻ, muối kéo lên

mặt đất trắng xóa, đất lại tiếp tục bốc hơi nước mạnh vào mùa khô, do đó nồng độ muối tăng lên, làm

cho đất không phù hợp cho việc canh tác.

c) Khai phá rừng ngập mặn để làm muối - nuôi Artemia

Làm muối là nghề truyền thống của người dân ven biển. Để sản xuất muối, từ năm 1987 khoảng 1.500

ha diện tích đất rừng đã được chặt phá tại Vĩnh Phước và Vĩnh Hải. Cũng chính thời gian này, trường đại

học Cần Thơ bắt đầu phát triển thí điểm việc nuôi Artermia ở huyện Vĩnh Châu. Sau khi rừng ở hai hợp

tác xã đã bị chặt trắng năm 1989, sản xuất muối được mở rộng và phong trào nuôi Artermia thử nghiệm

đã thành công. Khu vực sản xuất muối kết hợp nuôi tôm, Artermia Vĩnh Châu phân bố dọc theo lộ Giồng

Biển thuộc ba xã Vĩnh Phước, Vĩnh Tân và Lai Hòa với diện tích 1.985 ha, trong đó diện tích nuôi

Artermia là 100 ha.

Vụ nuôi Artermia thường kết hợp nuôi sau khi thu hoạch muối, khi nước còn trong và hàm lượng muối

vẫn còn cao, phù hợp với việc nuôi Artermia. Hiện nay mặc dù việc sản xuất Artemia-tôm của viện

nghiên cứu thuộc trường đại học Cân Thơ tại xã Vĩnh Phước đã chứng minh thành công bước đầu,

nhưng do yêu cầu đầu tư lớn, kỹ thuật cao nên chưa phát triển rộng ra dân.

Hình 15: Rừng mấm bị chặt phá trái phép. Hình 16: Rừng Đước đang bị chết do bao bí

nước.

Page 32: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

30

d) Nhận thức, chính sách, thể chế

Sự biến mất của rừng ngập mặn đã được gây ra bởi mức độ nhận thức không đầy đủ của người dân về

vai trò và dịch vụ của rừng ngập mặn cũng như các hậu quả môi trường liên quan. Rừng ngập mặn đã

từng được coi là tài sản công cộng. Trên thực tế, không có tổ chức hay cá nhân là chủ đất thực sự của

rừng. Tổ chức quản lý rừng rất yếu và thiếu cơ sở hạ tầng, kinh phí, trang thiết bị, và khung pháp lý đóng

vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy trách nhiệm quản lý rừng.

Nhận thức cộng đồng về vai trò và dịch vụ của rừng rất kém và thiếu. Chính quyền địa phương (ấp, xã)

chưa quan tâm đúng mức đến việc bảo vệ rừng.

Trên thực tế, việc nuôi tôm đóng góp cho ngân sách địa phương dưới hình thức thuế đất. Khôi phục rừng

ngập mặn, mặt khác, yêu cầu đầu tư, dẫn đến mức độ nhận thức kém về lợi ích của rừng.

e) Quản lý rừng chưa hiệu quả

Chính sách kinh tế - xã hội chưa khuyến khích người dân bảo vệ rừng bởi vì giá trị và lợi ích của rừng,

trong khi là vô giá, đã bị bỏ qua trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Việc đầu tư tái tạo rừng trong

những năm qua chưa phù hợp với điều kiện thực tế tại từng địa phương. Những khoản đầu tư cho các

khu rừng chỉ nhằm mục đích trồng, bỏ qua việc bảo vệ và cải thiện lập địa.

Việc quản lý bảo vệ rừng trong điều kiện cuộc sống của người dân địa phương vô cùng khó khăn đang

gặp phải rất nhiều trở ngại cần được giải quyết. Năm 1992 và 1993, Chính phủ ban hành Quyết định

327/CT và 264/CT để khuyến khích việc khôi phục rừng trên đất trống, đất mới bồi tụ. Năm 1998, Thủ

tướng Chính phủ phát động chương trình quốc gia khôi phục 5 triệu ha rừng trên toàn quốc, thay thế

Quyê định 327/CT và 264/CT (Chính phủ 1992) và (Chính phủ 1993).

Theo các chính sách này, đất rừng dọc bờ biển đã được giao cho nông dân và hợp đồng được ký kết để

cung cấp các cơ hội việc làm và thu nhập nhiều hơn cho người dân. Mức giá được trả từ 50.000 –

100.000 đồng/ha/năm cho việc bảo vệ rừng.

Từ năm 2000-2007, Dự án Ngân hàng Thế giới về Bảo vệ và Phát triển các vùng đất ngập nước ven

biển cũng áp dụng chính sách này cho việc bảo vệ rừng ngập mặn trong đai rừng phòng hộ xung yếu

của tỉnh Sóc Trăng. Đến năm 2004 dự án đã ký hợp đồng với các hội, đoàn thể xã hội địa phương thay

vì hộ gia đình để bảo vệ rừng ngập mặn xa bờ ở khu vực xã An Thạnh Nam (UBND Tỉnh Sóc Trăng

2007).

Tuy nhiên, quá trình này vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, ví dụ như, chia sẻ như thế nào lợi ích giữa

nhà nước và người dân địa phương. Nếu không có bất kỳ lợi ích nào, người dân đã cố gắng tạo bất kỳ

thu nhập nào có thể bằng cách phá hủy rừng thay vì bảo vệ rừng.

Nhìn chung, mức đầu tư cho quản lý bảo vệ rừng còn quá thấp. Các hoạt động trồng rừng, khôi phục

rừng cũng chưa mang lại đủ thu nhập trực tiếp đáp ứng nhu cầu cơ bản của nông dân. Các kỹ thuật tiên

tiến cho canh tác bền vững đã không được hướng dẫn cho nông dân hay đưa đến kết quả cải thiện sinh

kế của họ. Vốn cho các chương trình xóa đói giảm nghèo cũng nhỏ, cuộc sống của người dân vùng ven

biển vẫn còn rất thiếu thốn, vì vậy họ cố gắng kiếm tiền từ rừng bằng bất kỳ phương tiện nào có thể.

Tổ chức quản lý không đầy đủ và khả năng yếu kém để thực hiện các chiến dịch thông tin, tập huấn, giáo

dục, và tuần tar bảo vệ môi trường và rừng, cũng như lợi nhuận trước mắt của việc nuôi tôm thu hút cư

dân và những người di trú phá rừng ngập mặn để nuôi tôm, dẫn đến thất bại trong mục tiêu khôi phục

rừng.

Loại bỏ các nhân tố tiêu cực gây ra nạn phá rừng để khuyến khích bảo vệ rừng đòi hỏi phải có một số

chiến lược. Điều cần thiết là xây dựng các mô hình quản lý bền vững hệ sinh thái ven biển và tạo điều

kiện thích hợp cho người dân đượctham gia quản lý vùng ven biển. Người dân địa phương cần có cơ hội

có khả năng bền vững và phải có được lợi ích chia sẻ từ quản lý tổng hợp tài nguey6n ven biển bao gồm

Page 33: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

31

thu nhập ổn định đề đáp ứng nhu cầu hằng ngày của họ. Hình 17 trình bày nguyên nhân và hậu quả

giảm sút rừng ngập mặn.

Hình 17: Nguyên nhân và hậu quả giảm sút rừng ngập mặn.

3.3. Hậu quả của sự giảm sút tài nguyên rừng ngập mặn

Sự giảm sút tài nguyên rừng ngập mặn làm cho nghề đánh cá vùng ven biển bị tổn thất. Những vùng

giống của các loài tôm và cá kinh tế quan trọng đã bị mất.

Nơi cư trú của các loài sinh vật bị suy thoái kéo theo sự giảm sút về đa dạng sinh học. Số lượng chim ở

đai rừng phòng hộ đã giảm sút rất lớn và nhiều loài thú đã biến mất. Sự thiếu vắng hoàn toàn đai rừng

ngập mặn thành thục bảo vệ ven biển là một trở ngại chính đối với tính bền vững và những giá trị tài

nguyên trong vành đai ven biển.

Năm 1992 đê biển mới được sửa chữa đã bị bão phá hủy một phần. Triều cường đã tàn phá nặng nề tài

nguyên, đồng ruộng, nhà cửa của nhân dân ven biền. Rạng sáng ngày 27 tháng 10 năm 1992, bão và lốc

xoáy làm cho nhiều đợt sóng dữ dội đột ngột ập vào hai huyện Trần Đề và Vĩnh Châu. Nước dâng cao

phá vỡ nhiều đoạn đê bao, tràn ngập hàng vạn hecta ruộng nuôi tôm, trồng lúa, vườn, rẫy, cây công

nghiệp, hàng ngàn căn nhà. Trong đó 60 -70% đồng bào dân tộc Khmer. Theo ước tính thiệt hại khoảng

117 tỷ đồng, đây là thiệt hại lớn chưa từng xảy ra ở Sóc Trăng (Khương 2005).

Tại huyện Vĩnh Châu, ngay từ đợt sóng đầu tiên, nước biển nhanh chóng xâm nhập vào trong đất liền

trên 4.000 m có nơi ngập sâu 2 m, làm 42 km đê biển bị hư hại 50 – 70%, trong đó có 13 km đê bị phá

TĂNG DÂN SỐ

Không có hiểu biết về bảo tồn

Áp lực lên các tài

nguyên hiếm

Yếu kém về cấu trúc quản lý

Chặt trắng

Xói lở bờ biển Tôm cá mất vùng

sinh sản Xây dựng ao tôm Giảm đa dạng sinh học

Mất đất sản xuất Giảm sút quần thể tôm cá

Vận hành và quản lý kém

Bệnh tôm Tăng cường đánh

bắt thủy sản

Sụp đổ nghề cá Sụp đổ công nghiệp

tôm

công nghiệp tôm

Page 34: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

32

hủy hoàn toàn, đồng thời cuốn trôi 11 cống ngăn mặn. Khoảng 4.300 ha nuôi tôm bị ngập lụt, trong đó

300 ha tôm sú chưa kịp thu hoạch bị thiệt hại 100%. Ngoài ra có 420 ha cây đặc sản có giá trị kinh tế cao

như: củ hành, tỏi, nhãn cùng với 160 ha lúa bị mất trắng. Trong số hơn 1.100 căn nhà bị ngập lụt, phần

lớn là của đồng bào dân tộc Khmer, có 24 căn nhà bị hủy hoại 100%. Sóng biển còn làm chìm 4 thuyền,

chết 1 học sinh và mất tích 3 người. Nhiều cơ quan trường học đường sá ... bị hư hại. Đáng lưu ý là do

cát biển vùi lấp xáo trộn địa hình, nước mặn xâm nhập gây khó khăn rất lớn cho việc sản xuất sau này.

Trong thảm họa này, huyện Trần Đề có 13 đoạn đê dài 5 km ở các xã ven biển bị phá vỡ hoàn toàn.

Riêng ở xã Trung Bình có 78 căn nhà ở khu vực Mỏ Ó bị sụp đỗ, 126 miệng đáy hàng khơi bị sóng biển

cuốn trôi cùng 4 ngư dân bị chết, 1.300 ha nuôi tôm trên cánh đồng năng mới được cải tạo bị nhiễm mặn

nặng nề. Tại các xã thuộc khu vực ven biển và Cù Lao Dung có hơn 2.500 ha lúa và 5.800 ha mía,

hành,... bị thiệt hại nghiêm trọng. Hàng ngàn hecta cây màu và cây công nghiệp khác bị giảm năng suất.

Ngoài ra có 5.425 ao cá ở các xã nói trên bị ngập lụt gần như bị mất trắng hoàn toàn. Theo ước tính,

thiệt hại của huyện Trần Đề lên đến khoảng 75,6 tỷ đồng.

Riêng huyện Mỹ Xuyên, nơi nằm sâu trong đất liền, do nước dâng cao gây ngập úng làm thiệt hại hơn

2.000 ha lúa, ước tính khoảng 3 tỷ đồng. Những thiệt hại nặng nề trong đợt sóng thần năm 2005 ở Ấn

Độ Dương đối với các quốc gia lân cận, Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh và chính quyền địa phương các cấp đã

chú ý đến việc trồng rừng phòng hộ và đắp đê ngăn mặn.

Hiểu được tác hại của việc phá rừng ngập mặn, trong những năm gần đây, chính quyền cùng nhân dân

trong tỉnh tập trung sức lực, quyết tâm phục hồi rừng phòng hộ ven biển. Tính từ năm 1993 đến nay,

bằng mọi nguồn vốn, toàn tỉnh đã trồng được hàng ngàn ha. Riêng năm 2004 tổ chức NOVIB (Hà Lan)

tài trợ trồng 20 ha rừng đước tại xã Vĩnh Phước.

Đến năm 1996 dự án MILIEV (Hà Lan) và Tổ chức Hành động Phục hồi rừng ngập mặn Nhật Bản

(ACTMANG) giúp trồng 5 ha đưng. Đồng thời chương trình 327 nhà nước trồng được hàng ngàn ha rừng

ngập mặn. Từ năm 2000, được sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới đã trồng được hàng trăm ha rừng.

Điều này cho thấy khả năng phục hồi rừng ngập mặn ở tỉnh Sóc Trăng là một yêu cầu bức thiết được sự

quan tâm của nhân dân cũng như các tổ chức trong và ngoài nước. Bài học kinh nghiệm từ các hoạt

động trồng rừng được trình bày trong chương kế tiếp.

4. Trồng rừng và quản lý bảo vệ rừng ven biển tỉnh Sóc Trăng

Công tác phục hồi rừng trong 15 năm qua từ 1993 đến 2007 do các chương trình tái trồng rừng của nhà

nước như chương trình 327 từ 1993 đến 1997, ngân sách tín dụng từ Ngân hàng thế giới (từ 2001 đến

2007), các nguồn vốn tài trợ của nước ngoài như Hà Lan, Nhật Bản, Ngân hàng thế giới, đã khôi phục

được diện tích rừng ngập mặn lên đến 2.357,66 ha, với loài cây chủ yếu là bần (1.394,4 ha), đước

(521,12 ha) và mấm trồng hỗn giao 440,14 ha. Kết quả trồng rừng thời gian qua đã làm cho diện tích

vùng ven biển các huyện Vĩnh Châu, Trần Đề và Cù Lao Dung từng bước ổn định và phát huy được tác

dụng phòng hộ chắn sóng, gió, bảo vệ đê biển, là nơi sinh sản, sinh sống của nhiều loài thủy sản có giá

trị kinh tế cao như các loài tôm, cá, nhuyễn thể…

Kết quả khôi phục rừng nổi bật nhất là trồng được dải rừng bần chua, chạy dài từ một phần của xã Vĩnh

Hải (Rạch Hồ Lạn), Vĩnh Châu qua huyện Trần Đề đến xã An Thạnh 3, Cù Lao Dung tạo thành bức

tường bảo vệ đê biển khá vững chắc.

Các chương trình này có nhiều thiếu sót như được trình bày trong các chương trước và các phần sau.

Những thiếu sót này bao gồm: kỹ thuật khôi phục chưa phù hợp cho các lập địa khác nhau đặc biệt trên

các khu vực xói lở và đất cao hay đất bỏ hoang, thiếu một cấu trúc phù hợp để tối ưu hoá khả năng

phòng hộ của đai rừng và giảm xói lở bờ biển, và thiếu chính sách và thể chế cho quản lý tổng hợp vùng

ven biển. Ngoài ra, vẫn còn thiếu cơ chế tạo điều kiện cho người dân tham gia quản lý rừng. Kết quả

khôi phục rừng với ba loài cây chính đó là bần chua, đước đôi và mấm biển theo các chương trình phục

Page 35: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

33

hồi rừng đã thực hiện tại địa phương những năm vừa qua đã được đánh giá và trình bày trong chương

này như những bài học tốt cho việc triển khai khôi phục rừng vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng.

4.1. Chương trình trồng rừng từ nguồn vốn Chính phủ (chương trình 327)

Quyết định 327/CP của Chính phủ ký ngày 09/09/1992 nhằm mục đích phục hồi rừng trên đất cằn cỗi

hay bồi mới, và tạo cơ hội sinh kế nhiều hơn cho nông dân ở vùng sâu vùng xa. Quyết định này đã nâng

cao nhận thức của người dân ở mọi tầng lớp về bảo vệ và khôi phục rừng. Trong khuôn khổ của quyết

định này, tỉnh Sóc Trăng đã chuẩn bị và phê duyệt quy hoạch tổng thể tỉnh về phát triển rừng. Quy hoạch

tổng thể bao gồm một số dự án phục hồi hệ sinh thái rừng ngập mặn tại các khu vực cửa sông, ven biển

để bảo vệ vùng ven biển khỏi thảm họa tự nhiên do ảnh hưởng của đại dương, giảm thiểu xói lở bờ biển,

giữ lại và làm cố định những vùng đất mới bồi. Các dự án này cũng dự kiến tái tạo những khu nuôi

dưỡng cho các loài tôm, cá và thúc đẩy phát triển bền vững vùng ven biển.

Từ năm 1993 đến năm 1997, chương trình này đã trồng được khoảng 1.900 ha rừng ngập mặn. Hai loài

chính trong chương trình này là Bần chua (Sonneratia marina) và Đước (Rhizophora apiculata) được

trồng trên đất bồi mới dọc theo bờ biển Cù Lao Dung và Trần Đề. Kết quả khảo sát sinh trưởng của rừng

trồng trồng năm 1993 được thể hiện trong Bảng 4.

Trồng rừng Bần chua

Kết quả khảo sát Bảng 4 cho thấy tình hình sinh trưởng của Bần chua là khá tốt với đường kính bình

quân từ 11,6 cm đến 12,7 cm và chiều cao biến động từ 8,6 m đến 12,3 m, mật độ hiện hữu dao động từ

1.100 - 1.600 cây/ha. Số cây còn lại được quan sát vào tháng 5/2008 chiếm từ 24% đến 32% diện tích và

được phân bố đều đặn. Với rừng 15 tuổi, mức mật độ này có thể được chấp nhận. Cây trong rừng hầu

hết tươi tốt, số cây chết hay bị loại bỏ không đáng kể, như trình bày ở Hình 18.

Ở Ô số 2 và 13 (Bảng 4), rừng bần trồng trong dải rộng 50 m dọc theo rừng hiện có và có cây con tái

sinh rải rác, trên nền đất bùn chặt, có độ lún 5-10 cm, độ ngập triều cao nhất là 0,8 m. Rừng sinh trưởng

tương đối tốt. Lập địa được chọn trồng bần cho thấy thích hợp. Các cây mọc rải rác trước đây bảo vệ

cây con khỏi sóng lớn. dẫn đến tỷ lệ sống cao trong rừng hiện có. Các cây con mọc tự nhiên dưới các

ngọn cây.

Rừng phát triển tốt và được bảo vệ nghiêm ngặt. Các lớp thực vật tái sinh tự nhiên tiếp tục tăng trưởng,

đa dạng hóa cấu trúc rừng và tăng chức năng phòng hộ của rừng.

Bảng 4: Kết quả trồng rừng của Chương trình 327 tại huyện Cù Lao Dung và Vĩnh Châu.

Địa điểm

(xã)

Số hiệu ô điều

tra

Loài cây

Năm trồng

Mật độ trồng

Rừng tại thời điểm khảo sát

cây/ha DBH (cm)

H (m)

N (cây/ha)

An Thạnh Nam 2 Bần chua

1993 5.000 11,6 10,9 1,600

An Thạnh Nam 13 Bần chua

1993 5.000 12,7 12,3 1,200

Thị trấn Vĩnh Châu 26 Đước 1995 20.000 5,2 7,5 6,400

Vĩnh Phước 27 Đước 1995 20.000 5,7 8,1 6,700

Vĩnh Hải 41 Đước 1995 20.000 6,0 10 6,300

Page 36: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

34

Trồng rừng Đước

Rừng đước (Hình 19) được trồng trên hai dạng lập địa chính đó là đất có độ cao cao và độ cao vừa. Ở

các lập địa cao, đất ngập triều ít; Ô số 26 và 27 có chiều cao rừng trung bình từ 7,5 đến 8,1 m. Ô số 41 bị

ngập triều thường xuyên hơn, do đó mặc dù cùng một độ tuổi, các cây này phát triển nhanh hơn với tổng

chiều cao trung bình của rừng ngập mặn là 10 m.

Giữa hai khu vực có cùng một dạng lập địa cũng có sự khác biệt về sinh trưởng giữa Ô số 26 và Ô số

27, với đường kính 5,2 cm và tổng chiều cao trung bình của rừng 7,5 m ở Ô 26. Ở Ô 27 đường kính là

5,7 cm và chiều cao là 8,1 m. Nguyên nhân sinh trưởng của khu vực ô số 27 lớn hơn là do đước được

trồng dưới các mương đã được đào để lấy đất lên líp trồng dừa trước đây nay bỏ hoang. Chính các

mương nước này đã tạo ra độ ẩm và khả năng thủy triều lên xuống thuận lợi hơn, mang đến phù sa và

phân bón nhiều hơn cho khu vực, và làm cho việc trao đổi oxy xảy ra trong hệ sinh thái thủy sinh. Như

vậy yếu tố lập địa đã quyết định đến chất lượng rừng đước.

4.2. Rừng trồng theo dự án trồng rừng ngập mặn do Hà Lan tài trợ

Sinh trưởng của khoảng 98 ha bần trồng tại xã Trung Bình, huyện Trần Đề từ chương trình MILIEV do

Chính phủ Hà Lan tài trợ được thể hiện trong Bảng 5. Rừng trồng năm 1996 đã có đường kính bình quân

15 cm, chiều cao 12,5 m và mật độ 1.100 cây/ha. Hiện trạng cây sinh trưởng khá tốt.

Rừng bần được trồng trên nền đất bùn chặt, độ lún 5 cm và có độ ngập cao nhất khoảng 1.3 m, vị trí

trồng sát với đai rừng bần hiện có không quá 30 m. Diện tích khôi phục rừng từ chương trình này rất ít,

chi phí đầu tư cao, tỉ lệ thành rừng đạt cao.

Hình 18: Rừng Bần trồng năm 1993 tại xã An

Thạnh Nam.

Hình 19: Rừng Đước trồng năm 1995 tại xã

Vĩnh Hải, Vĩnh Châu.

Page 37: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

35

Bảng 5: Rừng bần chua trồng bằng vốn dự án MILIEV tại xã Trung Bình, huyện Trần Đề.

Địa điểm Số hiệu ô điều

tra

Loài cây

Năm trồng

Mật độ trồng

(cây/ha)

Các chỉ tiêu sinh trưởng rừng trồng

DBH (cm)

H (m)

N (c/ha)

Trung Bình 16 Bần chua

1996 5.000 15 12,5 1.100

4.3. Dự án Bảo vệ và Phát triển những vùng Đất ngập nước ven biển (CWPD)

Dự án CWPD tại phía nam Việt Nam được thực hiện tại vùng ven biển của bốn tỉnh: Trà Vinh, Sóc Trăng,

Bạc Liêu và Cà Mau. Dự án nhằm mục đích khôi phục rừng ngập mặn ven biển để cải thiện chức năng

dinh dưỡng của rừng ngập mặn và bảo vệ bờ biển. Tỉnh Sóc Trăng thực hiện dự án này từ năm 2000

đến 2007 với hỗ trợ tín dụng của Ngân hàng Thế giới và tài trợ bởi Chính phủ Đan Mạch và Việt Nam.

Dự án đã trồng được 1.085 ha rừng ở vùng phòng hộ xung yếu ven biển tỉnh Sóc Trăng từ năm 2000

đến năm 2007, được trình bày trong Bảng 6.

Bảng 6: Tổng hợp tình hình trồng rừng qua các năm của CWPD.

Năm

Diện tích trồng rừng (ha) Tỷ lệ sống trung bình ở thời điểm nghiệm thu phúc

tra Tổng số Trồng ở rừng

nghèo kiệt Trồng mới

2000 582,23 466,03 116,2 54%

2001 242,5 91,47 151,03 >90%

2003 37,94 0 37,94 96%

2004 90 61 29 70%

2005 63 0 63 78%

2006 60 0 60 >80%

2007 10 0 10 >80%

Tổng cộng 1.085,67 618,5 467,17

Nguồn: (UBND Tỉnh Sóc Trăng)

Những rừng nới này góp phần làm tăng độ phủ xanh của vùng ven biển. Năng lực quản lý và bảo vệ

rừng của lực lượng kiểm lâm các cấp được tăng cường mạnh mẽ. Nâng cao nhận thức của người dân

về lợi ích của rừng ngập mặn thông qua các hợp đồng trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng, qua các hoạt

động tập huấn, tuyên truyền. Số vụ vi phạm chặt phá rừng giảm đến 94% ở thời điểm năm 2006 so với

năm 2000. Một số tính năng của rừng được trình bày trong các đoạn văn dưới đây.

Kết quả khảo sát vào tháng 5/2008 rừng trồng tại huyện Cù Lao Dung, Trần Đề, và Vĩnh Châu được

đánh giá và trình bày trong Bảng 7. Cuối năm 2000, dự án đã trồng được 582,23 ha, gồm 466,03 ha ở

rừng nghèo kiệt và trồng mới là 116,2 ha ở xã Trung Bình (huyện Trần Đề), xã An Thạnh Ba và An

Thạnh Nam, huyện Cù Lao Dung. Tỷ lệ sống trung bình ở thời điểm nghiệm thu phúc tra dao động từ

54% đến 96%.

Trong năm 2001, đã tiếp tục trồng 242,5 ha ở địa bàn các xã thuộc 03 huyện Trần Đề, Vĩnh Châu và Cù

Lao Dung, trong đó trồng trên vùng rừng nghèo kiệt là 91,47 ha và trồng rừng mới là 151,03 ha. Các loài

cây trồng là Đước, Mấm, và Bần. Tỷ lệ sống trung bình đạt trên 90%.

Page 38: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

36

Năm 2003, Ban quản lý dự án tiếp tục trồng mới 37,94 ha rừng đước ở các xã Lai Hòa, Vĩnh Tân và Vĩnh

Hải. Tỷ lệ sống ở thời điểm nghiệm thu phúc tra đạt trung bình 96%. Như vậy đến cuối năm 2003, dự án

đã trồng được 862,67 ha.

Từ năm 2004 đến 2007, đã trồng thêm được 223 ha rừng gồm các loài cây Đước, Bần và Phi lao. Trong

đó, trồng ở rừng nghèo kiệt là 61 ha và trồng mới 162 ha. Tỷ lệ sống trung bình đạt trên 75%.

Trồng rừng bần chua

Bảng 7 đưa ra dữ liệu về bần chua do dự án CWPD trồng tại một số địa điểm dọc theo bờ biển Sóc

Trăng từ năm 2000 đến 2006. Mật độ rừng ban đầu dao động từ 5.000 đến 3.300 cây/ha.

Theo quan sát vào tháng 5/2008, mật độ rừng hiện có khác nhau rất nhiều phụ thuộc vào tính chất nền

đất, mức ngập triều, và hoạt động con người.

Mật độ rừng hiện có trồng vào năm 2000 là 6,8% tại Ô số 3, và 54,5% tại Ô số 21. Mật độ của Ô số 42 là

44% và là 66% cho Ô số 33 của rừng trồng năm 2011, trong khi mật độ dao động từ 36,4% đến 33.3%

cho rừng trồng vào năm 2006.

Bảng 7 cho thấy rằng tại Ô điều tra số 21 với mật độ ban đầu là 3.300 cây/ha thuộc xã Trung Bình, huyện

Trần Đề có sức sinh trưởng về đường kính cao nhất 16.1 cm với chiều cao là 11.0 m; mật độ cây hiện

hữu là 1.800 cây/ha. Khu vực này có độ ngập triều cao nhất là 0.9 m, trên nền đất thịt với độ lún 20 cm.

Tại Ô điều tra số 12 thuộc xã An Thạnh Nam có sức sinh trưởng về đường kính trung bình 15.4 cm với

chiều cao là 11.4m; mật độ cây hiện hữu 2.700 cây/ha. Khu vực này có độ ngập triều cao nhất là 1.0 m,

trên nền đất thịt pha cát với độ lún 2-5 cm. Việc trồng rừng được thực hiện bằng cây con có bầu nylon và

địa điểm trồng rừng cách đai rừng chính là không quá 50 m, trên nền đã có cây tái sinh. Những cây tái

sinh tự nhiên này bảo vệ cây con khỏi sóng to, gió lớn.

Ô số 3 trong Bảng 7 cho thấy rừng bần trồng năm 2000 tại xã An Thạnh Nam, huyện Cù Lao Dung có

đường kính bình quân là 8,3 cm và chiều cao bình quân là 6.2 m, với mật độ hiện hữu chỉ là 340 cây/ha

dưới dạng các bụi cây rải rác. Đây là khu vực có độ ngập triều hơn 1,7m, nền đất bùn với độ lún 20 cm.

Tỷ lệ sống thấp như được thấy trong Hình 20 là do ngập triều cao trong mùa trồng, làm cây con bị trốc

gốc và cuốn trôi theo dòng nước triều. Ở những lập địa khác thuộc xã Trung Bình, An Thạnh Nam, cây

con trồng xa đai rừng hiện có từ 100-150 m. Mức ngập triều hơn 1.7 m, và gần như 100% cây con đã

biến mất.

Page 39: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

37

Bảng 7: Sinh trưởng của rừng trồng bần chua, mấm biển (CWDP).

Địa điểm (xã)

Số hiệu

ÔTC

Loài cây Năm trồng

Mật độ trồng

Các chỉ tiêu sinh trưởng rừng trồng

c/ha DBH (cm)

Chiều cao (m)

Số (c/ha)

An Thạnh Nam 3 bần chua 2000 5.000 8,3 6,2 340

An Thạnh Nam 12 bần chua 2000 5.00 15,4 11,4 2.700

Trung Bình 18 bần chua 2000 5.000 10,3 6 900

Trung Bình 19 bần chua 2000 5.000 12,9 9,6 900

Trung Bình 21 bần chua 2000 3.300 16,1 11 1.800

Trung Bình 25 bần chua 2001 5.000 11,2 7 2.100

Vĩnh Hải 42 bần chua 2001 5.000 9,4 13,9 2.000

Vĩnh Châu 33 mấm biển 2001 5.000 2,1 3.300

Trung Bình 24 bần chua 2006 3.300 4,8 3 1.200

Trung Bình 17 bần chua 2006 3.300 2.7 1.100

Các Ô số 18, 19 và 25 của rừng trống vào năm 200

có đường kính từ 10.3 cm đến 12.9 cm, chiều cao

từ 6-9.6 m, với mật độ từ 900 - 2.100 cây/ha. Nhìn

chung cả 3 địa điểm này rừng trồng tăng trưởng

chậm. Hào bám vào thân cây dày đặc làm giảm tỷ

lệ sống của cây (Hình 21).

Hình 20: Tỷ lệ sống thấp nơi ngập cao.

Hình 21: Hào bám gây chết cây.

Page 40: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

38

Trồng rừng mấm biển

Mấm biển (Avicennia marina) cũng được chọn là loài

cây trồng rừng ngập mặn dọc bờ biển xã Vĩnh Châu

(Hình 22). Rừng được trồng trên nền đất sét cứng

cao chỉ thỉnh thoảng ngập triều cao.

Kết quả khảo sát trong Bảng 7, Ô số 33 cho thấy

sinh trưởng về chiều cao trung bình của rừng trồng

mấm biển 6 năm tuổi là 2.1 m. Tuy nhiên sinh

trưởng của cây mấm rất chậm với rất nhiều cành.

Kết quả khảo sát cho thấy lập địa này là không thích

hợp cho mấm biển vì mặt đất quá khô và cao. Mấm

biển cần một lớp bùn dày, ngập triều trung bình

hằng ngày. Có thể cải thiện lập địa bằng cách hạ

thấp mặt đất bằng mương rãnh để dẫn thủy triều và

phù sa vào.

Trồng rừng đước

Bảng 8 trình bày dữ liệu khảo sát rừng trồng đước

tại Vĩnh Tân, Lạc Hòa và Vĩnh Hải.

Bảng 8: Sinh trưởng của rừng trồng đước (CWPD).

Địa điểm giám sát (xã)

Số hiệu

ÔTC

Loài cây

Năm trồng

Mật độ trồng

Các chỉ tiêu sinh trưởng rừng trồng

c/ha DBH

(cm)

Chiều cao (m)

Số cây (c/ha)

Vĩnh Tân 29 đước 2005 10.000 0,5 500

Vĩnh Tân 30 đước 2005 10.000 0,4 400

Vĩnh Tân 31 đước 2006 10.000 0,93 8.800

Vĩnh Tân 32 đước 2007 20.000 0,89 10.700

Vĩnh Tân 34 đước 2002 10.000 2,0 2,8 2.300

Lạc Hòa 36 đước 2006 20.000 0,93 6.900

Lạc Hòa 37 đước 2006 20.000 0,85 400

Vĩnh Hải 38 đước 2006 10.000 0,98 4.300

Đước được trồng tại một số lập địa trên nền đất sét cứng (xã Vĩnh Tân và Vĩnh Châu), nền đất sét với

mương rãnh để dẫn nước triều vào khu vực được trồng (xã Lạc Hòa) và cây giống trong bầu (xã Vĩnh

Châu). Mật độ trồng là 20.000 hay 10.000 trụ mầm mỗi ha.

Rừng trồng năm 2005 (Hình 23, Ô số 29 và 30) tại xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Châu có tỷ lệ sống rất thấp

khoảng 400 đến 450 cây/ha. Cây cằn cổi và có xu hướng chết dần. Chiều cao đo được bình quân là 0.5

m. Nguyên nhân do trồng trên đất cao, nền đất khô cứng, thủy triều không ngập tới được.

Rừng đước trồng năm 2002 trên nền đất sét cứng (Ô số 34), chỉ ngập khi triều cao. Rừng trồng 6 tuổi có

chiều cao bình quân chỉ đạt 2.8 m và đường kính bình quân 2.0 cm, với mật độ trung bình 2.300 cây/ha.

Hình 22: Mấm biển trồng bằng bầu nilon

6 tuổi tại xã Vĩnh Châu.

Page 41: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

39

Đước thích hợp lập địa với lớp bùn dày ổn định hoặc đất sét mềm và ngập triều hằng ngày. Lập địa đã

nói đến ở trên không phù hợp với loài này. Trong trường hợp này, cần một số đầu tư để cải thiện điều

kiện lập địa nhằm dẫn triều và phù sa vào địa điểm trồng.

Một ví dụ cho loại hình lập địa này có thể được

thấy tại xã Lai Hoà, huyện Vĩnh Châu, nơi đước

được trồng trên nền đất sét cứng. Rừng tăng

trưởng rất tốt nhờ đào các mương dẫn triều rộng

25 cm, sâu 25 cm. Phương pháp này có thể được

áp dụng tại một số lập địa dọc vùng ven biển đối

với việc khôi phục rừng ngập mặn trên nền đất

cao.Tuy nhiên, trồng rừng với việc chuẩn bị đất

như thế có thể tốn kém - gấp đôi chi phí của các

hoạt động trồng tiêu chuẩn.

Trên nền đất bùn chặt, ít bị sóng gió do có các dãi

rừng hoặc các đám mấm tái sinh che chở việc

trồng đước bằng cây con trong túi bầu rất tốt (Ô

số 31 và 32, Hình 24). Bảng 8 cho thấy chiều cao

bình quân của đước trồng trong túi bầu nilon là 0.9

m và tỷ lệ sống bình quân là 88% với mật độ

8.800 cây/ha/ (Bảng 8)

Khu vực xã Lạc Hòa, huyện Vĩnh Châu đước được trồng năm 2006 trên nền đất bùn chặt, độ lún 5-10

cm. Rừng có mật độ trồng 20.000 cây/ha, chiều cao trung bình 0.93 m. Mật độ hiện tại chỉ là 6.900

cây/ha trong Ô số 36.

Tuy nhiên trong Ô 37 mật độ hiện tại chỉ là 400

cây/ha .Trong khu vực này ngư dân địa phương

thường đẩy xịp để đánh bắt thủy sản trong khi

rừng vẫn còn non, dẫn đến cây con bị chết và tỷ

lệ chết cao. Để đề cập tình trạng này, cần có một

cơ chế tạo điều kiện cho sự tham gia của ngư

dân vào việc quản lý rừng non và duy trì sinh kế

của họ.

Trồng cây phân tán

Cũng trong khuôn khổ của dự án (CWPD), nhằm

nâng cao độ che phủ của cây xanh trong vùng

phòng hộ xung yếu, các kế hoạch trồng cây phân

tán đã được thực hiện ở các tuyến lộ giao thông,

trụ sở các đơn vị hành chính xã, huyện và khuôn

viên các trường học, chùa trong vùng dự án.

Hoạt động trồng cây phân tán được thực hiện trong các năm 2004, 2005 và 2006. Sau ba năm thực hiện,

đã trồng được 84.824 cây xanh phân tán trong đó huyện Cù Lao Dung trồng được 12.383 cây, huyện

Trần Đề trồng 17.687 cây, và huyện Vĩnh Châu trồng được 54.754 cây. Số lượng cây trồng chỉ đạt

74,9% so với kế hoạch được duyệt là 114.334 cây là do nhà thầu cung cấp cây giống không đạt tiêu

chuẩn theo thiết kế.

Hình 23: Nền đất cứng không thích hợp với cây

đước.

Hình 24: Đước trồng bằng túi bầu nilon tại xã

Vĩnh Châu phát triển tốt.

Page 42: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

40

Dự án cung cấp cây giống và tồ chức các khóa tập huấn hướng dẫn kỹ thuật trồng cây cho những người

tham gia trồng trước khi triển khai trồng. . Ở các trụ sở các cơ quan hành chính xã, huyện và ở các điểm

chùa thì tỷ lệ sống của cây cao hơn hẳn ở các tuyến lộ giao thông do gia súc làm hư hại cây. Kết quả

cho thấy vì chỉ phân phát giống mà không có chi phí bảo vệ chăm sóc, nên tỷ lệ sống và sức sinh trưởng

của cây trồng phần lớn phụ thuộc vào ý thức của cộng đồng.

Nhìn chung, ở thời điểm cuối năm 2007, số cây xanh đã trồng vẫn sinh trưởng và phát triển tốt, một số

loài cây đã đạt chiều cao từ 05 – 06 mét, đặc biệt là số cây trồng ở các điểm chùa và trụ sở các cơ quan

hành chính xã, huyện. Các diện tích cây phân tán đã góp phần nâng cao diện tích trung bình cây

xanh/người trong vùng đệm và vùng kinh tế và sẽ cung cấp nhiều gỗ và lâm sản ngoài gỗ hơn cho cộng

đồng địa phương về lâu dài.

Chăm sóc rừng trồng

Công tác chăm sóc rừng trồng đã được thực hiện thông qua hợp đồng với hộ dân trồng rừng. Thời gian

chăm sóc là 03 năm, chi phí giảm dần từ năm 1 đến năm 3.

Những hoạt động chăm sóc bao gồm tuần tra khu vực để ngăn chận những hoạt động tiêu cực của con

người hay gia súc ảnh hưởng đến rừng non, duy trì điều kiện lập địa tương ứng với yêu cầu của cây con,

và tăng thêm nhiều cây con hơn cho những lập địa cây thưa thớt.

Từ năm 2004 đến năm 2007, đã chăm sóc 482,82 ha rừng, năm 2004 (37,94 ha), năm 2005 (98,94 ha),

năm 2006 (161,94 ha), và năm 2007 (184 ha).

Theo báo cáo tổng kết của dự án (CWPD 2007), hoạt động chăm sóc rừng non trồng trong các năm

2004, 2005 và 2006 mang lại kết quả tốt, làm tăng mật độ của rừng thưa thớt và củng cố đai rừng phòng

hộ xung yếu.

Bảo vệ rừng

Từ năm 2001, dự án CWPD đã thực hiện hợp đồng bảo vệ rừng thuộc vùng phòng hộ xung yếu với nông

dân địa phương, mỗi người bảo vệ 10 ha. Năm 2004, hợp đồng bảo vệ rừng ở những vùng xa cũng

được thực hiện với các hội đoàn thể địa phương. Thanh toán hằng năm tương đương với 50.000

đồng/ha/năm. Từ năm 2001 đến 2007, dự án thực hiện hợp đồng với nông dân để bảo vệ 533,07 ha

(2001) đến 2.667,47 ha (2007), Bảng 9.

Bảng 9: Diện tích rừng được bảo vệ qua các năm (ha).

Năm Huyện (ha) Cộng dồn

(ha/năm) Trần Đề Vĩnh Châu Cù Lao Dung

2001 - 533,07 - 533,07

2002 - 533,07 - 533,07

2003 526,03 712,86 - 1.238,89

2004 526,03 730,90 1.279 2.535,93

2005 555,28 795,25 1.279 2.629,53

2006 555,28 795,25 1.279 2.629,53

2007 555,28 833,19 1.279 2.667,47

Nguồn: Dự án CWDP 2007

Theo thỏa thuận bảo vệ này, số vụ chặt phá rừng ở thời điểm 2000 là 112 vụ, đến năm 2006 đã giảm

xuống chỉ còn 7 vụ. Tuy nhiên, chi phí – 50.000 đồng/ha/năm – là quá thấp. So với thu nhập của một lao

động địa phương bình thường, nó tương ứng với thu nhập của một lao động bình thường trong một hoặc

hai ngày làm việc. Định mức thanh toán này đã không khuyến khích người dân tham gia vào những hoạt

Page 43: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

41

động bảo vệ rừng. Theo cơ chế này, người dân tham gia một cách thụ động vào việc bảo vệ rừng,

nhưng do thanh toán thấp, mọi người không quan tâm đến công việc.

Sinh kế bền vững phải được cung cấp cho người dân địa phương trên cơ sở cơ chế phù hợp, đồng quản

lý là một trong những giải pháp có thể. Người dân cần được chủ động tham gia những hoạt động lâm

nghiệp, và họ phải chia sẻ những lợi ích của việc khai thác bền vững các sản phẩm phụ hay lâm sản

ngoài gỗ, hoặc họ có thể đánh bắt trên những bãi cạn mở.

Thực hiện các nghiên cứu khoa học

Trong năm 2005 và 2006, trong khuôn khổ hợp tác giữa dự án CWFD và Phân viện Khoa học Lâm

nghiệp Nam bộ, đã thực hiện các nghiên cứu trồng cây bần trên vùng đất xói lở và ngập sâu và trồng cây

đước trong túi bầu. Kết quả nghiên cứu (Cao 2005), và kinh nghiệm của nông dân địa phương cho thấy

có 3 yếu tố chính gây trở ngại sự tồn tại của cây bần trồng (a) sóng to làm trốc gốc cây và gây ra xói lở

nền đất, (b) số lượng lớn con hào đeo bám làm đổ, ngã cây, và (c) phù sa bồi lắp cây con.

Ở vùng cửa sông, quá trình bồi tụ diễn ra trong khoảng từ tháng 6 - 10 là mùa nước cao của sông

Mekong mang phù sa từ thượng nguồn đến cửa sông và hình thành vùng đồng bằng rộng lớn hàng ngàn

mét với lớp bùn đặc dọc theo bờ biển. Những cây con có thể bị bùn bồi lắp nếu được trồng ở lập địa

ngập sâu hay quá nhỏ để khỏi bị bùn bồi lắp.

Sau mùa mưa, gió đông bắc thổi mạnh tạo ra sóng lớn dẫn đến xói lở nghiêm trọng dọc theo bờ biển và

thực sự cuốn đi lớp phù sa mới. Cây con cũng có thể bị bật gốc và cuốn đi trong dòng nuớc biển nếu

chúng không đủ lớn và rễ không cắm chặt được trong lớp đất sâu.

Thời điểm rừng bị hào bám với mật độ cao từ tháng 2 - 6. Trong thời kỳ này, số lượng cá thể của con

hào tích lũy dần đến tháng 4 là nhiều nhất, bám quá nặng làm cây bị ngã đổ cộng với sóng biển làm nguy

cơ gãy cây, trốc gốc càng tăng lên. Số lượng của chúng giảm vào tháng 6 khi mùa mưa đến và độ mặn

giảm xuống dưới 10%.

Những hoạt động giảm thiểu các tác động tiêu cực bao gồm việc xây dựng lịch trình chính xác cho mùa

trồng, giúp cây con không bị phù sa vùi lấp, đủ khả năng chống đỡ với sóng và gió và giảm nhẹ việc hàu

bám. Các hoạt động trồng rừng phải được kết thúc trước tháng 6 hàng năm. Mặt khác, việc chọn địa

điểm trồng tốt giúp ngăn chận việc trồng rừng bị thất bại. Không nên trồng rừng tại các các khu vực ngập

nước sâu hay bị xói lở nghiêm trọng.

Xúc tiến tái sinh tự nhiên là giải pháp tốt cho việc mở rộng diện tích rừng ở vùng cửa sông ven biển. Các

biện pháp xúc tiến tái sinh tự nhiên bao gồm việc tuyên truyền, giải thích và các biện pháp quản lý hành

chính để không cho các hoạt động đánh bắt thủy sản đi vào khu vực đang diễn ra quá trình tái sinh tự

nhiên. Đồng thời cần thực hiện các biện pháp hạn chế xói lở, cố định bãi bồi nhằm giảm nhẹ các tác

động của sóng, gió và dòng chảy nhằm hỗ trợ cho cây tái sinh phát triển tốt.

Để nhanh chóng mở rộng diện tích rừng cần thực hiện biện pháp trồng lại rừng mới. Trong đó, cây bần là

loài cây thích nghi cao nhất đối với các bãi bồi ở cửa sông Mekong. Tuy nhiên trồng tại các khu vực đặc

trưng bởi độ ngập sâu cũng dẫn đến thất bại. Kinh nghiệm từ thực tế (CWDP) cho thấy cây đem trồng

phải là cây có chiều cao gấp hai lần độ ngập bình quân ở nơi trồng rừng, và chỉ nên trồng bần ở nơi có

độ ngập khoảng 1 m.

Dự án trồng rừng do ACTMANG tài trợ

ACTMANG là từ viết tắt của Tổ chức Hành động Phục hồi Rừng ngập mặn, Nhật Bản. Đây là dự án trồng

rừng quy mô nhỏ với 2 loài: bần và đước ở vùng ven biển Sóc Trăng. Kết quả trồng rừng được thể hiện

trong Bảng 10.

Page 44: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

42

Bảng 10: Sinh trưởng của rừng trồng bần chua và đước, nguồn vốn ACTMANG.

Địa điểm giám sát (xã)

Số hiệu

ÔTC

Loài cây Năm trồng

Mật độ trồng

(c/ha)

Các chỉ tiêu sinh trưởng rừng trồng

Chiều cao (m)

Số lượng (c/ha)

An Thạnh Nam 4 bần chua 2007 5.000 1,8 700

An Thạnh Nam 5 bần chua 2007 5.000 1,8 400

Cống 3 20 bần chua 2007 5.000 1,75 700

Ấp Trà Sết, Vĩnh Hải 39 đước 2007 5.000 0,85 1.400

Trồng rừng bần chua

Khu vực trồng bần bằng cây con rễ trần của dự án ACTMANG chủ yếu trồng trên nền đất bùn nhão, với

độ lún 20-25 cm và độ ngập cao nhất đo được là 1,7 m (Hình 25).

Trong khu vực phía trước hướng về phía sóng, tỷ lệ sống của rừng quan sát được vào tháng 05/2008 là

8% (Ô số 5, Bảng 10). Ở các khu vực sâu bên trong, do được che chắn bởi các dải rừng, tỷ lệ sống là

14% (Ô số 4 và 20).

Ở đây, xảy ra tình trạng kéo te khá phổ biến, dẫn đến rừng mới trồng bị trốc gốc và cuốn trôi bởi thủy

triều.

Trồng rừng đước

Rừng đước được trồng tại ấp Trà Sết, xã Vĩnh Hải trên nền đất bùn nhão và có dải rừng mấm che chắn

bên ngoài nên thích hợp cho cây phát triển. Tuy nhiên, với các hoạt động đánh bắt thủy sản như kéo te,

đánh lưới, bắt cá kèo giống, cua giống làm cho rừng trồng bị thiệt hại nặng (Hình 26).

Ngoài ra, có nhiều diện tích rừng trồng bần chua năm 2000 - 2003 ở An Thạnh Nam, An Thạnh 3, huyện

Cù Lao Dung, đước trồng ở xã Lạc Hòa, huyện Vĩnh Châu cũng bị tác động như trên, gần như thiệt hại

hoàn toàn.

Khảo sát hiện trường do một nhóm nghiên cứu thực hiện vào tháng 05/2008 cho thấy số lượng cây còn

lại của rừng đước trồng tại xã Vĩnh Hải, huyện Vĩnh Châu là 1.400 cây/ha (Ô 39, Bảng 10).

Hình 25: Rừng bần ACTMANG trồng. Hình 26: Rừng đước trồng 1 năm tuổi tại xã Vĩnh

Hải, Vĩnh Châu.

Page 45: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

43

Tỷ lệ trồng sống chỉ có 28% so với mật độ ban đầu, trong khi mức trung bình của tổng chiều cao của

rừng là 0.85 m.

Điều kiện đất đai thuận lợi cho mấm biển. Nguồn giống tự nhiên phong phú xung quanh khu vực này, đối

với khu vực này không cần phải trồng rừng mà chỉ cần xúc tiến tái sinh tự nhiên.

4.4 Tái sinh và sinh trưởng của rừng tự nhiên

Vùng ven biển cửa sông tỉnh Sóc Trăng có 2 dạng rừng hình thành thông qua quá trình tái sinh tự nhiên

là rừng bần và rừng mấm. Phân viện Điều tra Quy hoạch Rừng Nam bộ (2003), đã thống kê được 723 ha

rừng bần mọc tự nhiên tại các xã An Thạnh Nam (475,82 ha), An Thạnh Ba (62,53 ha), Lịch Hội Thượng

(19,56 ha), Trung Bình (164 ha).

Khảo sát vào tháng 05/2008 (Bảng 11) cho thấy chiều cao của rừng bình quân từ 8 mét đến 18,1 mét,

với mật độ bình quân từ 5.000 cây/ha tại xã Trung Bình đến 800 cây/ha tại xã An Thạnh Nam.

Rừng bần tái sinh tự nhiên trên các bãi bồi, dạng lập địa bùn lỏng ngập triều thường nhật theo chế độ

bán nhật triều Biển Đông. Khi bãi bồi ở vùng cửa sông hình thành, các cây tái sinh hình thành từng đám

thưa thớt sau đó sẽ rậm rạp dần thành những quần thụ ổn định. Đai rừng có tác dụng tốt trong việc

chống xói lở, hỗ trợ quá trình bồi tụ phù sa, góp phần bảo vệ sản xuất nông nghiệp và các khu dân cư ở

phía sau đai rừng.

Bảng 11: Rừng tái sinh tự nhiên Bần chua tại huyện Cù Lao Dung, Trần Đề và Vĩnh Châu.

Địa điểm (xã) Số hiệu ô điều

tra Loài cây

Các chỉ tiêu sinh trưởng rừng trồng

DBH (cm) Chiều cao (m) Số cây (c/ha)

An Thạnh Nam 11 bần chua 12,6 8,6 1.100

An Thạnh Nam 1 bần chua 25,5 14,1 800

An Thạnh Nam 6 bần chua 2,5 2

An Thạnh Nam 10 bần chua 21,4 15,7 1.300

An Thạnh Nam 7 bần chua 1 500

An Thạnh Nam 8 bần chua 1 550

An Thạnh Nam 9 bần chua 1,4 3.000

An Thạnh Nam 14 bần chua 21,2 16,6 700

An Thạnh Nam 15 bần chua 18,2 15,6 1.400

Mỏ Ó, Trung Bình 22 bần chua 1,6 5.800

Mỏ Ó, Trung Bình 23 bần chua 4,6 4,4 3.800

Hồ Lạn, Vĩnh Hải 43 bần chua 6,5 4,7 1.000

Rừng mấm tái sinh tự nhiên với diện tích lớn, tập trung tại khu vực ven biển xã Vĩnh Hải (Hình 27 a).

Phân viện Điều tra Quy hoạch Rừng Nam bộ (2003) thống kê được 162,16 ha rừng tái sinh với chiều cao

bình quân khoảng từ 4 đến 5 mét, đường kính bình quân từ 3,0 đến 4,5 mét. Mật độ của rừng dao động

từ 4.800 cây/ha đến 10.000 cây/ha.

Rừng mấm tái sinh tự nhiên trên các bãi bồi, dạng lập địa bùn lỏng ngập triều thường nhật theo chế độ

bán nhật triều biển Đông. Các bãi bồi ban đầu hình thành ở ven biển tạo nền tảng ban đầu cho sự định

cư của các loài thực vật. Rừng mấm biển là loài cây tiên phong chiếm cứ trên các bãi bồi ven biển, với

hệ rễ đâm sâu xuống đất và cành lá xum xuê thúc đẩy quá trình bồi tụ phù sa. Rừng hình thành ban đầu

là những đám cây thưa thớt sau đó sẽ rậm rạp dần thành những quần thụ ổn định.

Page 46: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

44

a b

Hình 27: (a) Rừng mấm biển tái sinh dày dọc bờ biển xã Vĩnh Hải, Vĩnh Châu và

(b) Rừng bần tái sinh ở Cồn Tròn.

Rừng sinh trưởng tốt, có khả năng gieo giống tự nhiên mạnh mẽ, sau khi ổn định sẽ phát triển ra các

diện tích xung quanh; những nơi địa hình cao rừng mấm sinh trưởng chậm hơn. Quá trình bồi tụ phù sa,

làm cho nền đất được nâng cao dần, rừng mấm sẽ sinh trưởng chậm dần, nhường chỗ cho các loài cây

khác thay thế dần như đước, tra, cóc vào đai rừng.

Rừng bần chua tái sinh phát triển

mạnh ở Cù Lao Dung và Trần Đề. Tại các ô nghiên cứu cho thấy mật độ cây tái sinh dao động từ 500 –

3.800 cây/ha. Khu vực Mỏ Ó có số cây tái sinh trong rừng 2 tuổi là 3.800 cây/ha, với chiều cao bình quân

4,4 m (Ô số 23), và 5.800 cây/ha trong rừng 1 tuổi với chiều cao 1,6 m (Ô số 22).

Tại xã An Thạnh Nam, rừng bần chua tự nhiên có đường kính khá lớn biến động từ 12,6 đến 25,5 cm, và

mật độ biến động từ 800 cây (Ô số 1) đến 1.400 cây/ha (Ô số 15) (Hình 27b).

4.5 Công tác vườn ươm

Các loài cây rừng ngập mặn có khả năng tái sinh cao ở các lập địa phù hợp. Giai đoạn trước năm 1995,

quá trình phục hồi rừng ngập mặn ở các tỉnh Nam bộ hầu hết là dựa vào cây con được tái sinh tự nhiên,

hoặc trồng rừng bằng cây rễ trần được thực hiện trên những lập địa là đất bãi bồi ở vùng ven biển và

cửa sông. Đây là những lập địa dễ thích nghi với cây rừng ngập mặn.

Từ năm 1995, nhiều khu rừng bị chặt phá để làm nông nghiệp hoặc nuôi trồng thuỷ sản không có hiệu

quả, đất bỏ hoang cần phải trồng rừng. Việc khôi phục rừng trên những vùng đất hoang hoá, hoặc xói lở

khó khăn hơn rất nhiều so với việc trồng rừng trên đất mới bồi.

Mặt khác, mùa ra hoa, tạo quả và sản xuất hạt giống, tráí giống không trùng hợp với thời điểm trồng

rừng. Thời điểm thích hợp nhất để trồng rừng bần chua là tháng 5-7, để tránh được tình trạng phù sa bời

lắp cay con và sóng lớn, nhưng trái bần chua thường chín vào tháng 9-12. Lập vườn ươm là cách tốt

nhất để có cây con đạt tiêu chuẩn chất lượng và số lượng vào đúng thời điểm và lập địa thích hợp cho

trồng rừng.

Do đó, việc trồng rừng bằng cây con được chăm sóc cẩn thận trong các khu vườn ươm đã được đặt ra.

Trong khuôn khổ của dự án trồng rừng ngập mặn MILIEV do Chính phủ Hà Lan tài trợ một số vườn ươm

đã được xây dựng ở lâm trường Tam Giang I (tỉnh Cà Mau).

Năm 2003, dự án “Bảo vệ và phát triển các vùng đất ngập nước ven biển đồng bằng sông Cửu Long”

được ngân hàng Thế Giới và Chính Phủ Việt Nam tài trợ đã xây dựng được 2 vườn ươm tại thị trấn Vĩnh

Page 47: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

45

Châu và xã Trung Bình, nhưng thực tế chỉ có vườn ươm ở thị trấn Vĩnh Châu đi vào hoạt động. Vườn

ươm này cũng chỉ một lần cung cấp cho chương trình trồng rừng hơn 50.000 cây đước trong túi bầu, sau

đó đã bị dẹp bỏ để trồng phi lao (Hình 28). Nguyên nhân là do vườn ươm đặt ở vị trí cao và bất lợi cho

việc vận chuyển vật tư, cây giống cũng như tưới tiêu nước dẫn đến giá thành cao.

a b

Hình 28: (a) Vườn ươm tại Vĩnh Châu, Sóc Trăng (b) Vườn ươm ở Vĩnh Châu nay trồng Phi lao.

Một số kinh nghiệm thu thập được trong việc thiết lập vườn ươm cây rừng ngập mặn như sau:

4.5.1 Địa điểm lập vườn ươm

Chọn lựa nơi xây dựng vườn ươm là bước đầu tiên có ảnh hưởng đến sự thành công của dự án trồng.

Một số chú ý khi xây dựng vườn ươm cây rừng ngập mặn như sau:

Không nên chọn những vị trí sau:

Xa nguồn nước và thiếu nước ngọt

Những nơi trũng hoặc nơi gò cao

Xa làng xóm, khó quản lý

Gần các bãi chăn thả súc vật

Thiếu nguồn đất và phân để tạo bầu

Khó khăn cho vận chuyển

Nên tạo lập ở những vị trí sau:

Gần nguồn nước ngọt hoặc nước lợ

Thuận lợi cho vận chuyển

Gần địa điểm trồng rừng

Nến đất bằng phẳng, có sẵn đất và phân để tạo bầu

Diện tích vườn ươm

Diện tích vườn ươm phải đủ lớn để chứa đủ các vật liệu đóng bầu, chẳng hạn như đất, phân bón, nơi

đóng bầu, làm luống để tạo cây mạ hoặc các hoạt động khác. Nói chung, diện tích vườn ươm biến động

từ 1 – 10 ha phụ thuộc vào lượng cây con cần cung cấp, ví dụ như:

Để sản xuất đủ cây trồng cho 1 ha rừng đước với mật độ 10.000 cây, thì cần diện tích liếp ươm

cây là 350 m2, cộng thêm 150 m

2 cho các công trình phụ trợ (tổng cộng là 500 m

2).

Để sản xuất 100.000 cây mấm biển con trong bầu, cần có diện tích khoảng 2.000 m2, trong đó

diện tích luống gieo ươm chiếm khoảng 65%, phần còn lại được sử dụng cho các công trình phụ

trợ như: vô bầu, chuẩn bị đất, lối đi lại, tưới nước, v.v.

A

Page 48: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

46

Để sản xuất 1.000.000 cây bần chua rễ trần, cần có diện tích khoảng 5.000 m2 trong đó diện tích

đất để làm liếp gieo chiếm 70% và các hoạt động khác chiếm 30%.

4.5.2 Các dạng vườn ươm và phân khu

Các dạng khác nhau của vườn ươm

Có các dạng khác nhau của vườn ươm cây rừng ngập mặn:

Vườn ươm cố định: được thiết lập để tạo cây con cho chương trình trồng rừng lâu dài. Loại này có quy

mô tập trung và đầu tư lớn dẫn đến chi phí và giá thành cây con cao.

Vườn ươm tạm thời: được xây dựng ở những nơi trồng rừng với diện tích nhỏ, chỉ sử dụng để phục vụ

cho các hoạt động trồng rừng trong 1 hay 2 năm. Vườn ươm tạm thời bao gồm 2 dạng:

Vườn ươm nổi, được thiết lập trên các khu đất khô, nên phải thường xuyên tưới nước.

Vườn ươm chìm đào mương rãnh, mặt đất được hạ xuống để tạo ngập triều, không thuờng

xuyên tưới nước.

Phân khu vườn ươm (Hình 29)

Nói chung, một vườn ươm cây giống được thiết kế

thành các khu chính sau:

Khu chứa vật liệu, đất, phân bón, tro trấu,

mùn và các vật liệu làm bầu khác.

Khu chuẩn bị đất và trộn vật liệu làm ruột

bầu.

Khu sản xuất cây con: chiếm 60% tổng diện

tích.

Hệ thống tưới tiêu: xung quanh vườn cần

có bờ bao vừa để chủ động tưới tiêu vừa để

vận chuyển vật tư.

Giàn che: sử dụng bóng mát bảo vệ cây

giống khỏi gió to và nắng gắt. Cọc tre được

dùng để chống đở mái che, sao cho từ mái

tới mặt đất ít nhất khoảng 1,5 đến 2 m để

thuận tiện cho việc chăm sóc cây con. Cần

che nắng cho cây con bằng lưới màu đen

hay xanh lá cây, lá dừa nước hay các vật

liệu khác.

Hình 29: Các hoạt động trong vườn ươm.

Page 49: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

47

4.6 Hiện trạng quản lý rừng ngập mặn tỉnh Sóc Trăng

Về mặt quản lý, rừng ngập mặn tỉnh Sóc Trăng được phân thành 2 loại: rừng phòng hộ và rừng sản xuất.

Rừng phòng hộ được sử dụng để bảo vệ đê biển, cơ sở hạ tầng, khu dân cư, v.v. Đây là loại rừng ở phía

hướng ra biển của đê. Rừng sản xuất được sử dụng để cung cấp các sản phẩm thương mại (gổ, nhiên

liệu, v.v.)

Rừng phòng hộ được chia ra thành đai rừng phòng hộ xung yếu ở về phía biển và vùng đệm ở phía sau.

Đai rừng phòng hộ xung yếu được bảo vệ triệt để, do đó người dân không thể chặt cây hay tiến hành các

hoạt động khác trong rừng. Trong vùng đệm, người dân có thể sử dụng 30-40% tổng diện tích của vùng

đệm để phát triển thủy sản, nông nghiệp tạo ra các sản phẩm phụ.

Những cơ sở pháp lý cho công tác quản lý bảo vệ rừng là các văn bản pháp quy của Bộ Nông nghiệp và

Phát triển Nông thôn, của Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh, cũng như các quy định của Sở Nông nghiệp và Phát

triển Nông thôn, Chi cục Kiểm Lâm.

Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) chịu trách nhiệm trước chính quyền tỉnh thực hiện

quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh. Tại tỉnh Sóc Trăng, Chi Cục Kiểm Lâm

tỉnh thuộc Sở NN&PTNT chịu trách nhiệm bảo vệ rừng dọc bờ biển. Chi Cục Kiểm Lâm có 3 hạt tại

huyện Cù Lao Dung, Trần Đề và Vĩnh Châu để tuần tra và giám sát bờ biển và tiến hành các hoạt động

trồng rừng.

Để thực hiện dự án 661, một ban quản lý dự án được thành lập thuộc Chi Cục KiểmLâm. Ban này có

trách nhiệm tổ chức việc thực hiện hằng năm của dự án 661, bao gồm việc lập kế hoạch trồng và soạn

thảo các hợp đồng trồng và bảo vệ với các cá nhân hay tổ chức.

Trong lĩnh vực này, Chi Cục Kiểm Lâm chịu trách nhiệm về chức năng quản lý nhà nước (giám sát, tuần

tra) cũng như chức năng thực hiện. Các chức năng của Chi Cục Kiểm Lâm đôi khi không được phân biệt

rõ ràng. Các hoạt động giám sát chưa được tiến hành hiệu quả trên cơ sở hằng năm.

Rừng sản xuất được giao cho các cá nhân, tổ chức, công ty (như công ty Phú Thành), Công An Tỉnh, và

các cơ quan chính quyền khác. Trên nguyên tắc, chính quyền giao đất rừng cho các bên liên quan này

trên cơ sở kế hoạch. Họ có thể sử dụng 30-40 % diện tích đất cho nuôi trồng thủy sản và phần đất còn

lại để trồng. Rừng ngập mặn và các lô đất nuôi trồng thủy sản có thể tách biệt, hay được phân bố rải rác

ngang qua các lô đất nuôi trồng thủy sản.

Tuy nhiên, trong thời gian qua một số cá nhân và doanh nghiệp chỉ chú trọng đến nuôi tôm. Tình trạng

giữ nước lâu ngày trong các vuông tôm đã làm cây rừng chết hàng loạt. Tình trạng này phát sinh do sự

thiếu nhận thức của người dân về lợi ích của rừng và kỹ thuật thiết kế và vận hành hệ thống nuôi trồng.

Ngoài ra, lợi ích tiềm năng trước mắt của việc nuôi tôm lớn hơn rất nhiều việc quản lý bền vững rừng.

Một số lô đất quá nhỏ- từ 1-3 ha – và diện tích nuôi trồng (30-40%) không mang lại đủ thu nhập cho chủ

đất, do đó họ phát quang toàn bộ diện tích rừng để nuôi trồng thủy sản.

Chức năng giám sát và hướng dẫn đã bị xao lãng và một số công ty đã cố gắng mở rộng ao nuôi của họ

bằng cách kéo dài tình trạng úng ngập lâu ngày để phá hủy rừng. Những hành động này không được đề

cập một cách chặt chẽ hoặc rõ ràng.

Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định của pháp luật gặp khó khăn trong thực tế. Đối tượng vi phạm là

người dân tộc, người nghèo do chưa có sự kết hợp giữa hài hoà giữa chính quyền địa phương với lực

lượng Kiểm lâm trong việc tuyên truyền giáo dục người dân về nghĩa vụ bảo vệ rừng. Những người này

nên tham gia vào việc quản lý rừng ngập mặn thông qua các hoạt động đồng quản lý. Họ nên tham gia

vào quá trình sử dụng đất và kiếm sống qua việc bảo vệ và khôi phục rừng ngập mặn.

Page 50: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

48

Các tổ quản lý bảo vệ rừng chưa phát huy được trách nhiệm, còn dựa vào lực lượng Kiểm lâm và chưa

có sự liên kết với chính quyền địa phương ở cấp ấp, xã, chưa phát huy được sức mạnh của cộng đồng

tham gia bảo vệ và quản lý nguồn tài nguyên ở vùng ven biển.

Công tác tuần tra bảo vệ rừng chưa thường xuyên, dẫn đến tình trạng chặt phá rừng diễn ra một thời

gian dài và thiệt hại lớn như ở xã Vĩnh Châu, huyện Vĩnh Châu. Khỏang 200 ha rừng của công ty Phú

Thành đã bị phá hủy do tình trạng ngập nước kéo dài.

4.7 Bài học kinh nghiệm từ thành công của các hoạt động trồng rừng

Trong một vài thập niên vừa qua, công tác khôi phục rừng ở Sóc Trăng đã đạt được những kết quả quan

trọng nâng cao độ che phủ của rừng và chất lượng rừng. Những loài cây chủ yếu được sử dụng trong

quá trình trồng rừng cho kết quả tốt, thích nghi với điều kiện lập địa, sinh trưởng và phát triển ổn định là

các loài đước đôi, bần chua, mấm biển.

Phương pháp trồng rừng cũng đa dạng như trồng với cây con trong túi bầu, trụ mầm hay cây rễ trần. Tuy

nhiên, công tác khôi phục rừng cũng gặp nhiều thách thức, nhất là các vấn đề kỹ thuật áp dụng cụ thể

trong điều kiện môi trường bất lợi đã dẫn đến kết quả trồng rừng chưa cao. Một số bài học kinh nghiệm

từ các chương trình trồng rừng như sau:

(i) Chọn lập địa phù hợp tương ứng với yêu cầu sinh thái của các loài cây rừng ngập mặn

Trong thập niên qua, việc chọn lựa lập địa để trồng rừng không tương ứng luôn luôn với yêu cầu của loài

tại một số nơi. Chẳng hạn trồng bần, đước trên đất mới bồi với mức ngập triều sâu, bùn loãng chưa ổn

định (huyện Cù Lao Dung, Trần Đề và Vĩnh Châu). Tương tự như thế, trồng mấm trên đất cao, ít có khả

năng ngập triều, đã cho thấy tỷ lệ cây sống thấp.

Vấn đề quan trọng nhất là việc lựa chọn lập địa phù hợp nên tương ứng với yêu cầu sinh thái của các

loài cây rừng ngập mặn. Cây bần chua nên trồng trên nền đất bùn ổn định, nơi đã có cây bần tái sinh tự

nhiên và cách đai rừng hiện có khoảng 50 đến 100 m với mức ngập triều thấp hơn 1 m.

Cây mấm biển nên trồng ở vùng đất bùn loãng đến chặt, đã có mấm tái sinh tự nhiên. Cây đước và cây

đưng nên trồng trên đất bùn chặt, hoặc đất sét mềm giữa các loài tiên phong mấm hay bần. Cây dà vôi

có thể trồng trên vùng đất cao nếu có thể hạ thấp mặt đất để được ngập triều. Cây cóc trồng trên nền đất

cao ít khi ngập triều hơn và cần lên liếp.

(ii) Xác định trình tự đúng cho các hoạt động trồng rừng

Sóng lớn và gió mạnh xảy ra từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau, gây xói mòn nghiêm trọng dọc theo bờ

biển và cuốn trôi cây con tại một số nơi (như xã Vĩnh Hải, An Thạnh Nam, v.v). Nếu trồng rừng vào thời

kỳ này thì cây con sẽ bị tróc gốc rễ và bị cuốn theo dòng nước.

Quá trình bồi tụ diễn ra từ tháng 6 đến tháng 10; lượng phù sa bồi cao từ 0.5 - 0.6 cm có thể bồi lấp và

làm chết cây con.

Tình trạng cây con mới trồng bị hào bám cũng xấu và gây thiệt hại cho rừng mới trồng. Số lượng hào

cao nhất trong tháng 4 và gây thiệt hại nghiêm trọng nhất cho cây bần con mới trồng triong thời gian này.

Cây ngập duới nước biển và bị sóng làm tróc gốc.

Vì những lý do này, thời vụ trồng rừng cần được điều chỉnh để hỗ trợ cây giống và tránh thời điểm trồng

rừng bị bồi lấp phù sa từ tháng 6-10, thời kỳ bị hào bám vào tháng 5-7, và thời kỳ bờ biển bị xói lở từ

tháng 11 đến tháng 2. Do vậy cây Bần chua nên được trồng từ tháng 5-6. Đước, Đưng và Mấm nên

được trồng vào tháng 5-7 ở vùng bãi bồi ven biển và vào tháng 8-9 ở vùng nội địa ít bị ảnh hưởng của

sóng và gió, trong khi Dà vôi nên trồng vào tháng 8-9.

Page 51: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

49

(iii) Số lượng và chất lượng cây giống

Chất lượng và số lượng cây giống để trồng chưa được xem xét chu đáo trong các chương trình trống

rừng thời gian qua. Tiêu chuẩn cho cây con xuất vườn chưa chính thức được xác định, mật độ và cấu

trúc của mục tiêu bảo vệ rừng tương ứng chưa được thống nhất.

Cần chủ động nguồn giống đạt tiêu chuẩn chất lượng và số lượng, chú trọng về tiêu chuẩn cây con xuất

vườn về chiều cao, đường kính, tuổi cây và tình trạng khoẻ mạnh. Đa dạng hoá loài cây trồng để làm

tăng sự đa dạng sinh học ở vùng ven biển.

(iv) Loại bỏ những nguyên nhân xấu do con người gây ra

Hoạt động đánh bắt trong các khu vực rừng mới trồng có thể làm tổn hại cây con. Năm 2004, trong số

29 ha đước trồng ở xã Vĩnh Châu – huyện Vĩnh Châu, có 7,9 ha bị mất trắng. Số còn lại chỉ sống

khoảng 55% do ngư dân giẫm đạp cây con.

Do vậy, việc trồng rừng cần phải quan tâm đến các hoạt động xã hội, tạo điều kiện để nhân dân địa

phương ổn định việc làm. Mặt khác cần tăng cường các biện pháp tuyên truyền giáo dục ý thức pháp

luật. Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành và các cơ quan.

Những hoạt động đồng quản lý để bảo vệ rừng nên được khuyến khích bởi vì điều này có thể đóng góp

đáng kể vào việc bảo vệ rừng. Trong cơ chế đồng quản lý, người sử dụng tài nguyên và chính quyền địa

phương qua thương lượng cùng xác định các khu vực hay „khu‟ của một số tài nguyên nào đó cần đến

một vài mức độ bảo vệ, bảo tồn khôi phục hay/và sử dụng bền vững.

Những quy định cụ thể được áp dụng cho từng vùng được xác định về mặt ai có thể làm gì, ở đâu, khi

nào, như thế nào và bao nhiêu để đảm bảo đạt được mục tiêu chính của khu và tạo khả năng cho việc

bảo vệ, bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên được thành công.

Để bảo vệ đất phía sau rừng ngập mặn, khu vực này nên chuyển thành khu phục hồi nhằm đảm bảo

cho cây con không bị tác động, có những quy định sau đây. Không được đánh bắt trong khu cho hai

năm đầu sau khi trồng rừng và sau đó cho ba năm tiếp sau chỉ những người nghèo nhất của trong nhóm

người sử dụng tài nguyên được đánh bắt bằng các ngư cụ không hủy diệt.

Như một phần của thỏa thuận, tất cả những người sử dụng tài nguyên có trách nhiệm đảm bảo sự tuân

thủ các quy định của khu và qua thời gian khu rừng ngập mặn sẽ được phục hồi thành công. Khu này

sau đó có thể được phân lại thành khu sử dụng bền vững cho phép nhiều người hơn được vào khu này

đánh bắt nguồn lợi một cách bền vững do mục tiêu phục hồi khu rừng đã đạt được.

Quản lý rừng trồng, cần nghiên cứu các giải pháp trồng rừng theo đám, trồng theo băng, để chừa chỗ

cho đánh bắt hải sản, duy trì sinh kế cho người dân địa phương. Bên cạnh đó cần thiết lập quan hệ cộng

tác với các cộng đồng dân cư địa phương trong việc quản lý rừng trồng, hạn chế đánh bắt ở những khu

rừng mới trồng. Đối với vùng đất xói lở mạnh cần xây dựng hệ thống che chắn sóng, gió như kè chắn

sóng để bảo vệ cây con mới trồng.

5. Các biện pháp bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn

5.1 Các quan điểm và mục tiêu

Rừng ngập mặn là nguồn tài nguyên quan trọng, một bộ phận không thể tách rời trong quản lý tổng hợp

vùng ven biển. Bảo vệ, sử dụng hợp lý và phát triển bền vững tài nguyên rừng ngập mặn là góp phần

bảo vệ các điểm nóng về đa dạng sinh học ở vùng ven biển, cửa sông.

Từ xa xưa, các cộng đồng dân cư địa phương đã phụ thuộc vào tài nguyên rừng ngập mặn. Rừng ngập

mặn cung cấp thực phẩm, chất đốt, tạo việc làm và thu nhập, và che chở cho nhân dân địa phương. Việc

quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát triển rừng ngập mặn một cách bền vững cần dựa trên nguyên tắc bảo

vệ và duy trì sinh kế bền vững cho các cộng đồng dân cư ở địa phương. Quản lý rừng ngập mặn cần có

Page 52: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

50

sự tham gia của các ngành, các cấp và các cộng đồng dân cư địa phương. Các tập quán canh tác, kiến

thức bản địa và giá trị văn hoá truyền thống cần được phát huy.

Rừng ngập mặn phải được quản lý trên cơ sở sử dụng bền vững. Tài nguyên rừng cần được sử dụng và

phát huy; tài nguyên thiên nhiên ở vùng ven biển cần được quản lý tổng hợp. Những người cung cấp

dịch vụ môi trường cần được tưởng thưởng cho việc đáp ứng các nhu cầu bảo vệ rừng.

5.2 Nâng cao năng lực quản lý tổng hợp vùng ven biển

Quản lý rừng ngập mặn dựa trên sự tiếp cận quản lý hệ sinh thái, để quản lý bảo vệ rừng ngập mặn cần

chú ý các hoạt động phát triển ở vùng thượng lưu. Các kế hoạch quản lý khả thi phải phù hợp với khung

pháp lý, sinh kế của người dân địa phương. Cần thiết lập khung pháp chế để tăng cường hợp tác, điều

phối giữa các cơ quan chức năng và các cộng đồng dân cư.

Các thể chế được thiết lập cần có các cán bộ có chuyên môn phù hợp, với nguồn ngân sách và quy chế

tài chính thích hợp để thực hiện các chương trình hành động có tính khả thi cao.

Các dự án phát triển ở vùng ven biển và trong lưu vực cần được đánh giá tác động môi trường. Đẩy

mạnh các nghiên cứu liên ngành về rừng ngập mặn nhằm hỗ trợ cho công tác quản lý.

Cần tăng cường sự phối hợp giữa các ngành từ khâu quy hoạch sử dụng đất đến các khâu chỉ đạo thực

hiện các dự án trên các vùng đất lâm nghiệp, đặc biệt là những nơi gần các khu rừng đặc dụng và rừng

phòng hộ.

Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các ban quản lý rừng phòng hộ với chính quyền và các đoàn thể ở địa

phương có rừng phòng hộ. Xây dựng quy chế xác định trách nhiệm của các ngành, các cấp, các tổ chức

đoàn thể quần chúng đối với việc bảo vệ và phát triển rừng.

Tăng cường các biện pháp tuyên truyền giáo dục trong nhân dân, phát huy sâu rộng ý thức bảo vệ rừng

của toàn dân, huy động nhân dân sẵn sàng phối hợp với kiểm lâm, chính quyền địa phương, đoàn thể,

lực lượng vũ trang ngăn chặn có hiệu quả việc chặt phá rừng, lấn chiếm đất rừng.

Cần thiết chuyển giao kiến thức và tổng hợp các khuyến nghị vào ứng dụng thực tế của kết quả nghiên

cứu và kinh nghiệm vào quy trình quy hoạch tỉnh và xây dựng chính sách (tập trung vào việc đóng góp

cho hợp phần Kế hoạch Bảo vệ Bờ biển của kế hoạch 5 năm của tỉnh và Kế hoạch Quản lý của Huyện).

Sử dụng các cơ chế hiện hữu và xây dựng các cơ chế mới để tổng hợp các biện pháp thích ứng với tác

động của biến đổi khí hậu vào hỗ trợ kỹ thuật và dịch vụ khuyến nông (nghĩa là thực hiện kế hoạch ứng

phó tổng hợp với biến đổi khí hậu).

Đẩy mạnh sự phối hợp, điều phối giữa các cơ quan, đoàn thể. Xây dựng các chương trình giảng dạy,

giáo trình và phát triển công cụ hỗ trợ giảng dạy. Thu hút các tổ chức nghiên cứu, các tổ chức phi chính

phủ và các tổ chức quốc tế tham gia vào các hoạt động bảo vệ, phát triển và nghiên cứu rừng ngập mặn.

Cung cấp thông tin và đào tạo kỹ thuật để hỗ trợ những nhà quản lý các cấp. Nâng cao nhận thức về

rừng ngập mặn cho các nhà chính trị, hoạch định đất đai. Nên xây dựng trung tâm thông tin rừng ngập

mặn.

Xây dựng và thực hiện quy chế quản lý bền vững nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên và nuôi trồng thuỷ sản bền

vững. Bảo vệ rừng ngập mặn là nơi sinh sản của các loài cá, giáp xác và thân mềm.

Cần khoanh vùng các khu vực cộng đồng địa phương được phép đánh bắt thuỷ sản. Khuyến khích xây

dựng hệ thống nuôi trồng thuỷ sản theo hướng tổng hợp, bền vững.

Việc nuôi trồng thuỷ sản trên đất rừng ngập mặn không mang tính bền vững. Cần nghiêm cấm mở rộng

các đầm tôm trong khu vực rừng ngập mặn. Kiểm soát chặt chẽ việc đưa các giống thuỷ sản ngoại lai để

hạn chế các tác động tiêu cực của nuôi trồng thuỷ sản đến đa dạng sinh học.

Page 53: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

51

Không nên cho phép chuyển đổi rừng ngập mặn sang sản xuất nông nghiệp, làm muối, hoặc làm đầm

nuôi thuỷ sản.

5.3 Nghiên cứu khoa học và công nghệ

Nghiên cứu định lượng các giá trị và chức năng của rừng (trong việc bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ cảnh

quan, bảo vệ môi trường, cung cấp lâm sản và các sản phẩm ngoài gỗ). Nghiên cứu đề xuất các giải

pháp cụ thể cho việc quản lý và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên của các hệ sinh thái rừng.

Tăng cường công tác quản lý giống, vườn ươm, chú ý chuyển giao kỹ thuật sản xuất giống cho hộ dân

tại chỗ để cho họ thực hiện nhằm tạo thêm việc làm, giảm chi phí vận chuyển.

Rừng ngập mặn cần được khảo sát, đo đạc, kiểm kê diện tích định kỳ trên cơ sở ứng dụng các công

nghệ tiên tiến như thông tin viễn thám và kỹ thuật thông tin địa lý (GIS). Cơ sở dữ liệu của rừng ngập

mặn cần được thiết kế và kết nối với cơ sở dữ liệu tài nguyên rừng của tỉnh, của quốc gia và được cập

nhật thường xuyên, đảm bảo sử dụng thuận lợi cho các nhà quản lý.

Nghiên cứu xây dựng các kết cấu chắn sóng, giảm sóng để thúc đẩy quá trình lắng đọng phù sa kết hợp

với hệ thống rừng ngập mặn. Để đảm bảo cho công tác trồng rừng đạt hiệu quả cao, việc chọn đúng loài

cây trồng trên các điều kiện lập địa cụ thể là rất cần thiết. Đất bờ kênh được tạo ra do quá trình nuôi

trồng thủy sản. Sau khi những đầm nuôi thủy sản ở vùng phòng hộ được giải tỏa, hoặc do kinh doanh

thủy sản không hiệu quả nên bị bỏ hoang. Việc tái tạo rừng trên những dạng đất này là rất cần thiết. Đất

bờ kênh là loại đất có mức thích nghi thấp với các loài cây rừng ngập mặn và cả các loài cây rừng khác.

Để trồng lại rừng trên đối tượng này cần hạ độ cao của các bờ xuống đến mức nước thuỷ triều có thể

ngập. Phần đất bờ cần san lấp xuống lòng kênh, nước triều đưa phù sa bồi lắng sẽ nâng cao dần các

lòng kênh cũng như khôi phục lại các đặc tính của đất ngập mặn, tạo mặt bằng trồng rừng.

Giải pháp hạ bờ, dân địa phương gọi là “dỡ lớp”, đòi hỏi chi phí rất lớn đồng thời còn liên quan đến công

tác tái định cư các hộ dân đang nuôi tôm trong vùng phòng hộ xung yếu. Vì vậy cần có xuất đầu tư riêng

cho từng đối tượng trồng rừng. Không áp dụng suất đầu tư chung cố định cho các đối tượng trồng rừng

khác nhau.

Xói lở có thể rất nghiêm trọng ở một số khu vực và dự án do đó đang thử nghiệm các phương pháp bào

chống xói lở bảo vệ bờ biển. Dự án GIZ “Quản lý nguồn Tài nguyên Thiên nhiên Vùng Ven biển Tỉnh Sóc

Trăng” đang xây dựng mô hình khôi phục rừng ngập mặn, kết hợp:

thiết kế đê thích hợp,

sử dụng rào chắn sóng, hạn chế xói lở, và tăng bồi tụ, và

khôi phục rừng ngập mặn trong các điều kiện che chắn tương đối phía sau rào cản chắn sóng.

Dự án đã hỗ trợ việc phát triển thông số kỹ thuật cho thiết kế đê thích hợp với điều kiện dọc theo bờ biển

Sóc Trăng. Tỉnh Sóc Trăng sẽ sử dụng thiết kế này để sữa chữa đê bị xói lở tại xã Vĩnh Tân.

Bước tiếp theo là phát triển một mô hình số, mô phỏng thủy động lực học và phát triển đường bờ biển

với mục đích thiết kế các kết cấu phá sóng/các rào cản phá sóng. Các rào cản này sẽ dẫn đến bồi tụ tại

các vùng sạt lở và tránh được xói lở sau công trình càng nhiều càng tốt (Schmitt 2009).

Việc “rào” các đám rừng tái sinh là hết sức cần thiết, ngoài tác dụng hỗ trợ quá trình hình thành rừng trên

bãi bồi còn là biện pháp bảo vệ hữu hiệu ngăn chặn các hoạt động khai thác hải sản phá hoại rừng.

Đào, đắp các cấu trúc chắn sóng ở vùng ven biển có thể làm giảm tác động của sóng và tăng trầm tích ở

ven bờ biển, điều này có thể hỗ trợ các hoạt động trồng rừng ở vùng ven biển. Tuy nhiên, để thực hiện

cần có những khảo sát nghiên cứu tỷ mỷ, cả nền đất và mức độ ngập thuỷ triều.

Page 54: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

52

Đối với đất trống thì trồng lại rừng. Riêng bãi bồi bùn là đất có tiềm năng cho trồng rừng thì hàng năm sẽ

có thiết kế cụ thể. Mức độ trồng theo đai song song với bờ biển, băng rộng khoảng từ 30-50 mét/năm.

Trước khi trồng cần tiến hành các biện pháp điều tra đánh giá đất đai cụ thể.

Với những dạng đất có cây rừng ngập mặn nhưng ở cao trình từ 2,5 mét trở lên, chỉ bị ngập khi thủy

triều lên cao, hoặc những vùng trũng đọng nước ngập thường xuyên thì cần mở các rãnh nước nhỏ để

thủy triều lưu thông tạo điều kiện thuận lợi cho sinh trưởng của cây rừng ngập mặn.

Cần xác định rõ các mục tiêu quản lý, bảo tồn và phát triển bền vững và kế hoạch cụ thể cho các hoạt

động. Khung quản lý cần phải tương thích với các khung quản lý tổng hợp. Người dân địa phương cần

được tham gia vào khâu hoạch định và thực hiện các hoạt động. Ưu tiên bảo vệ các loài cây ngập mặn

có khả năng tái sinh. Xây dựng các vườn ươm cây rừng ngập mặn và bảo tồn cây giống cho phục hồi

hoặc trồng cây ngập mặn.

Đối với các trạng thái đất có rừng tự nhiên và rừng trồng hiện có thì bảo vệ nghiêm ngặt. Đối với rừng

nghèo kiệt và các loại rừng trồng kém phát triển thì trồng bổ sung, tăng mật độ để đảm bảo tác dụng

phòng hộ của đai rừng.

5.4 Các mặt kinh tế xã hội

Cần xây dựng các quy chế quản lý chi tiết trong phạm vi cho phép của pháp luật quốc gia, phù hợp với

lợi ích người dân. Tăng cường hiệu quả của các chính sách quản lý bằng cách lồng ghép các biện pháp

(giáo dục, cấp giấy phép quản lý sử dụng tài nguyên với các biện pháp hành chính và cưỡng chế). Thực

hiện các giải pháp hạn chế việc khai thác sau khi lấy ý kiến nhóm sử dụng và giám sát.

Cần nghiên cứu sự phụ thuộc của các cộng đồng dân cư địa phương đối với các nguồn tài nguyên của

rừng ngập mặn. Đánh giá những tác động của các dự án phát triển và các chính sách đối với các cộng

đồng dân cư địa phương.

Thực hiện các dự án phát triển du lịch sinh thái, phát triển các dự án nuôi trồng thuỷ sản, nuôi ong mật,

tạo nguồn thu nhập và duy trì sinh kế bền vững cho nhân dân địa phương.

Xây dựng quy chế quản lý bảo vệ môi trường, loại bỏ, giảm bớt hoặc hạn chế ảnh hưởng của ô nhiễm

qua áp dụng các cơ chế chi trả dịch vụ môi trường. Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào công tác

bảo tồn, phục hồi và quản lý rừng ngập mặn.

Cán bộ nhân viên lâm nghiệp cần được đào tạo, tăng cường năng lực chuyên môn và hiểu biết về luật

pháp để thực hiện công tác quản lý bảo vệ rừng. Tổ chức đào tạo về những vấn đề liên quan đến bảo vệ

và quản lý bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn đa dạng sinh học. Ưu tiên cử cán bộ nhân viên địa phương

tham gia vào các trường kỹ thuật trung cấp và đại học ngành lâm nghiệp ở các cấp độ khác nhau.

Đào tạo cán bộ quản lý lâm nghiệp theo hướng quản lý tổng hợp. Người quản lý rừng ngoài việc bảo vệ

và sử dụng bền vững tài nguyên rừng cần phải biết bảo vệ và sử dụng bền vững các giá trị khác của

rừng (như tổ chức du lịch sinh thái, quản lý các nguồn tài nguyên thủy sản ở rừng ngập nước, và các

nguồn tài nguyên ngoài gỗ). Tăng cường trang thiết bị cho các ban quản lý rừng ở các cấp. Thực hiện

chế độ ưu đãi đối với các cán bộ làm việc trong ngành lâm nghiệp đặc biệt đối với những vùng sâu, vùng

xa.

Cần tiến hành đánh giá tiềm năng du lịch bền vững rừng ngập mặn và nguy cơ của các hoạt động không

được kế hoạch. Cần thực hiện du lịch gắn kết với việc bảo tồn một cách bền vững. Xây dựng cơ chế luật

pháp và các hướng dẫn quản lý bền vững du lịch. Chuẩn bị tài liệu phát cho du khách (bản đồ, tranh ảnh,

bản mô tả các loài) khuyến khích công tác bảo tồn.

Page 55: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

53

Tăng cường hợp tác với các nhóm liên quan có sự tham gia của cộng đồng địa phương. Cộng đồng địa

phương phải thu được lợi ích trực tiếp từ hoạt động du lịch. Quảng cáo du lịch trong tạp chí cũng như

các phương tiện truyền thông.

Phổ biến các kiến thức, thông tin khoa học về sử dụng, giá trị kinh tế, xã hội, văn hoá rừng ngập mặn.

Qua phối hợp giữa cộng đồng địa phương, các nhà khoa học, cán bộ quản lý, khuyến khích việc trao đổi

thông tin, sử dụng hiệu quả nghiên cứu trước đây.

5.5 Các chính sách và thể chế

Rà soát, loại bỏ và sửa đổi những quy định không còn phù hợp. Bảo tồn, khai thác hợp lý kết hợp cải

thiện, phục hồi đất ngập nước. Ưu tiên bảo vệ nguồn lợi và các sinh kế truyền thống địa phương. Tuân

thủ pháp luật cụ thể là các quy định và quy tắc về bảo tồn. Tổng hợp và tóm tắt quy định pháp luật chủ

chốt thành một bản hướng dẫn dễ hiểu.

Quy định trách nhiệm rõ ràng, tăng cường hợp tác giữa các cơ quan chức năng. Tránh các hoạt động

phương hại đến sinh cảnh rừng ngập mặn và hệ thống thủy văn. Quy hoạch cụ thể các vùng rừng ngập

mặn, chức năng và mục tiêu của từng vùng

Xây dựng chính sách đầu tư riêng cho việc trồng rừng phòng hộ ở vùng ven biển cả ở cấp quốc gia và

cấp tỉnh, bởi vì trồng rừng ven biển có tỷ lệ rủi ro cao, đặc biệt là những vùng xói lở và những vùng mới

bồi đất chưa ổn định.

Tập trung nguồn vốn đầu tư của nhà nước vào việc quản lý vốn rừng hiện có. Bảo vệ, trồng, khoanh nuôi

và làm giàu rừng phòng hộ, ưu tiên đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, ươm cây giống.

Cần có chính sách đầu tư đồng bộ, đầu tư cho trồng rừng phải gắn với việc đầu tư cho các hoạt động và

các công trình quản lý, bảo vệ rừng. Đầu tư trồng rừng phải đầu tư cho các công trình thủy lợi để phòng

chống cháy rừng. Đầu tư cho quản lý bảo vệ rừng phải gắn với đầu tư cho cộng đồng địa phương trong

vùng đệm và khu vực gần rừng.

Page 56: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

54

Tài liệu tham khảo

Tiếng Anh

Aksornkoae, S. 1975. Structure, Regeneration and Productivities of Mangrove in Thailand. Ph.D. Thesis. Michigan State University.

Batagoda, B. 2003. The Economic Values of Alternative Uses of Mangrove Forest in Sri Lanka. UNEP/GPA.

Bui Thi Nga and Huynh Quoc Tinh 2008. Shrimp Forest Farming System in Sustainable Development of the Mekong Delta. pp. 205-212. In: Phan Nguyen Hong, Nguyen Thi Kim Cuc, Vu Hien Thuc (eds.) Rehabilitation of Mangrove Forest for Climate Change Adaptation towards Sustainable Development. Agriculture Publishing House, Ha Noi.

Duke, N.C. 1992. Mangrove Floristics and Biogeography. pp. 63-100. In: Robertson, A.I. and Alongi, D.M. (eds.) Tropical Mangrove Ecosystems. American Geophysical Union, Washington, D.C. 63-100.

Duke, N.C. 2006. Australia‟s Mangroves. The Authoritative Guide to Australia’s Mangrove Plants. The Univeristy of Queensland and Norman C. Duke, Brisbane.

Duke, N.C., Ball, M.C. and Ellison, J.C. 1998. Factors Influencing Biodiversity and Distributional Gradients in Mangroves. Global Ecology and Biogeography Letters 7:27-47.

EJF 2003. Risky Business: Vietnamese Shrimp Aquaculture – Impacts and Improvements. Environmental Justice Foundation, London, UK. 44 pages. http://www.ejfoundation.org/pdf/risky_business.pdf Accessed October 2009.

Euroconsult 1996. Coastal Wetland Protection and Development. Ho Chi Minh City: World Bank/Government of Vietnam.

FAO 1994. Mangrove Forest Management Guidelines, FAO Forestry Paper No. 117, Rome. 319 pp.

Hinrichsen, D. 1999. The Coastal Population Explosion. pp. 27-29. In: Cicin-Sain, B., Knecht, R.W.and Nancy Foster, N. (eds.) Trends and Future Challenges for U.S. National Ocean and Coastal Policy. Center for the Study of Marine Policy, University of Delaware and the Ocean Governance Study Group.

Hong, P.N., Ba T.V., San, H. T., Tre, L. T., Tri, N. H., Tuan, M. S. and Tuan, L. X. 1997. The role of Mangrove in Vietnam. Publishing house of Nong nghiep, Hanoi.

Hong, P.N. and San, H.T. 1993. Mangroves of Vietnam. The IUCN Wetlands Programme, Bangkok, Thailand. 173 pp.

Hong, P.N., Tuan, L.X. and Thai, V.D. 2007. Mangrove Restoration for Climate Change Adaptation and Sustainable Development. Climate change and the role of mangrove in adaptation. Symposium Can Gio, Ho Chi Minh City, 26-28 Nov 2007. MERD.

Howe, C.P., Claridge, G.F., Hughes, N.R. and Zuwendra 1991. Manual of Guideline for Scoping EIA in Tropical Wetlands. PHPA/AWB Sumatra Wetland Project Report No. 5, Asian Wetland Bureau, and Directorate – General for Forest Protection and Nature Conservation, Department of Forestry. Bogor, Indonesia.

Joffre, O. 2010. Mangrove Dynamics in Soc Trang Province 1889 -1965. Management of Natural Resources in the Coastal Zone of Soc Trang Province; Deutsche Gesellschaft für Technische Zusammenarbeit (GTZ) GmbH. 60 pp. http://czm-

soctrang.org.vn/Publications/EN/Docs/Mangrove%20history%201889-1965%20EN.pdf

Macnae, W. 1966. Mangroves in Eastern and Southern Australia, Aust. Jour. Bot. 15, 67-104.

Mazda, Y.M.1997. Mangroves as a Coastal Protection from Waves in Tonkin Delta, Vietnam. Mangroves and Salt Marshes 1:127-135.

Mazda, Y.M. 2006. Wave Reduction in a Mangrove Forest Dominated by Sonneratia sp. Wetland Ecology and Management 14: 365-378.

Pedersen, A. 1996. The Conservation of Key Wetland Sites in the Red River Delta. BirdLife International Vietnam Programme Conservation Report No. 8. .

Page 57: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

55

PNAS 2008. Study sets high economic value on threatened Mexican mangrove. Proceedings of the National Academy of Sciences. http://www.physorg.com/news135878754.html Accessed August 2009.

Schmitt, K. 2009. Protection and Sustainable Use of Coastal Wetlands through Co-management and Mangrove Rehabilitation with Emphasis on Resilience to Climate Change. Management of Natural Resources in the Coastal Zone of Soc Trang Province. 15 pp. http://czm-soctrang.org.vn/en/About%20the%20project.aspx?ID=6 Accessed January 2010.

Tri, N. 2007. Economic Valuation of Mangrove Ecosystems. Climate change and the role of mangrove in adaptation. Symposium Can Gio, Ho Chi Minh City, 26-28 Nov 2007. MERD.

Watson, J. 1928. Mangrove Forest of Malaysia Peninsula. Fraser & Neave, Malayan Forest Records Vol. 6 Singapore, 275 pp.

World Bank and Government of Vietnam 1993. Mekong delta master plan. Ho Chi Minh City: World Bank and Government of Vietnam.

World Bank 1996. Coastal Wetlands Protection and Development, Southern Mekong Delta. World Bank/Government of Vietnam, Project Preparation, Final Report. Euroconsult in association with FIPI 2 and RIA 2.

Yamashita, A. 2005. Zoning for Risk Assessment of Water-related Natural Disaters in the Mekong Delta. Master Thesis, University of Can Tho, Vietnam.

http://cantho.cool.ne.jp/ameder/map.html#Chapter2Accessed October 2009.

Tiếng Việt

Cao, T.T. 2005. Nghiên cứu trồng và tăng trưởng Bần chua (Sonneratia caseolaris) trên vùng ngập sâu

và xói lở tại xã Trung Bình, huyện Long Phú, xã An Thạnh III, xã An Thạnh Nam, huyện Cù Lao

Dung, tỉnh Sóc Trăng. Thành phố Hồ Chí Minh: Phân viện Khoa học Lâm nghiệp Nam bộ.

Chính phủ 1992. Quyết định số 327/CT ngày 15/9/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về Một số chủ

trương, chính sách sử dụng đất trống đồi nứi trọc, rừng, bãi bồi ven biển và mặt nước. Hà Nội:

Chính phủ.

Chính phủ 1993. Quyết định 264/CT ngày 22/7/1993 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về Chính sách

khuyến khích đầu tư phát triển rừng. Hà Nội: Chính phủ.

Hằng, T.K. 2003. Báo cáo giám sát chất lượng nước và tài nguyên thủy sinh vật, Khu bảo tồn thiên nhiên

Thạnh Phú Bến Tre. Thành phố Hồ Chí Minh: Phân Viện Điều tra Quy hoạch Rừng Nam bộ.

Khương, L. H. 2005. Rừng ngập mặn Sóc Trăng - Thực trạng và giải pháp. Hội Thảo toàn quốc Vai trò

của hệ sinh thái rừng ngập mặn và rạn san hô trong việc giảm nhẹ tác động của đại dương đến

môi trường. Hà Nội, ngày 8-10 tháng 10 năm 2005: Đại học Quốc gia Hà Nội.

Lợi, L.B. 1972. Rừng ngập mặn Việt Nam. Sài Gòn.

Ninh, N.H. 2003. Tổng quan tình trạng đất ngập nước ở Việt Nam sau 15 năm thực hiện qui ước

Ramsar. Hà Nội, Việt Nam: Cục Môi Trường.

Phân Viện ĐTQHR Nam bộ 2003. Báo cáo hiện trạng sử dụng đất vùng phòng hộ ven biển tỉnh Sóc

Trăng, Dự án bảo vệ và phát triển những vùng đất ngập nước ven biển phía Nam đồng bằng

sông Cửu Long. Thành phố Hồ Chí Minh: Phân viện Điều tra Quy hoạch rừng Nam bộ.

Sâm, Đ.Đ. 2005. Tổng quan rừng ngập mặn Việt Nam. Dự án ngăn ngừa xu hướng suy thoái môi trường

Biển Đông và vịnh Thái Lan, Hợp phần rừng ngập mặn. Hà Nội: Nhà xuất bản Nông Nghiệp, Hà

Nội, 136 trang.

Sâm, L. 2003. Xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long. Hà Nội: Nhà xuất bản Nông nghiệp, 422

trang.

Thịnh, P.T. 1996. Quy hoạch phát triển lâm nghiệp vùng kinh tế trọng điểm cửa sông Cửu Long. Thành

phố Hồ Chí Minh: Phân Viện Điều tra Quy hoạch Rừng Nam bộ

Page 58: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

56

Thọ, L. 1998. Dự án đầu tư phát triển khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước thạnh phú, tỉnh Bến Tre.

Thành phố Hồ Chí Minh: Phân Viện Điều tra Quy hoạch Rừng Nam bộ

UBNDT Sóc Trăng 2007. Báo cáo hoàn thành dự án. Sóc Trăng: Ban quản lý dự án bảo vệ và phát triển

những vùng đất ngập nước ven biển.

Page 59: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007
Page 60: Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng 1965 - 2007

Deutsche Gesellschaft für Internationale Zusammenarbeit (GIZ) GmbH Quản lý nguồn Tài nguyên Thiên nhiên Vùng Ven biển Tỉnh Sóc Trăng 134 Trần Hưng Đạo, Tp Sóc Trăng, Việt Nam T + 84 79 3622164 F +84 79 3622125 I www.giz.de I www.czm-soctrang.org.vn